SlideShare a Scribd company logo
1 of 117
Download to read offline
Alfa Romeo ra đời như thế nào?
Alfa Romeo là một công ty sản xuất xe
hơi nổi tiếng của Italia, do Cavaliere Ugo
Stella, một nhà quý tộc ở Milan liên kết
với nhà sản xuất xe hơi Alexandre
Darracq sáng lập vào năm 1907, lấy tên
là "Darracq Italiana". Ban đầu, nhà máy
sản xuất được đặt ở Naples nhưng sau
đó, Stella đã dời xưởng về vùng ngoại ô
Milan và đổi tên thành ALFA (Anonima
Lombarda Fabbrica Automobili).
Chiếc 1910 24HP do Giuseppe Merosi thiết kế là chiếc xe đầu tiên không còn
mang nhãn hiệu Darracq. Sau đó Merosi cũng tiếp tục thiết kế nhiều mẫu xe
ALFA mới được trang bị động cơ mạnh mẽ hơn (40-60hp). ALFA cũng tham
gia vào các giải đua xe quốc tế tuy nhiên do ảnh hưởng của chiến tranh thế
giới thứ nhất, ALFA đã phải ngưng sản xuất xe trong 3 năm.
ALFA bắt đầu nằm dưới sự điều hành của
Nicola Romeo từ năm 1916 và chuyển sang sản
xuất vũ khí quân dụng hạng nặng cho quân đội
Italia và các đồng minh của Italia. Trong suốt
thời kỳ chiến tranh, ALFA đã sản xuất vũ khí và
động cơ cho máy bay, máy phát điện và đầu
máy xe lửa. Khi chiến tranh kết thúc, Nicola
Romeo đã hoàn toàn tiếp quản ALFA và công ty
tiếp tục sản xuất xe hơi trở lại.
Năm 1920, ALFA đổi tên thành Alfa Romeo và mẫu xe đầu tiên ra mắt là
chiếc Torpedo 20-30HP. Giuseppe Merosi vẫn là nhà thiết kế chính cho Alfa
Romeo và công ty vẫn tiếp tục cho ra đời những mẫu xe hơi dân dụng và xe
đua danh tiếng (trong đó có cả chiếc 40-60HP và RL Targa Florio).
Năm 1923 Vittorio Jano bỏ Fiat đến đầu
quân cho Alfa Romeo, thay thế vị trí
thiết kế trưởng của Merosi, một phần là
nhờ sự thuyết phục của tay đua trẻ tuổi
Enzo Ferrari của đội Alfa Romeo. Chiếc
xe đầu tiên do Jano thiết kế là chiếc P2
Grand Prix, chiếc xe giành giải vô địch
thế giới năm 1925. Jano cũng đã phát
triển hàng loạt những chiếc xe dân
dụng, từ những chiếc xe có dung tích xi
lanh lớn/nhỏ với động cơ I4, I6 hay I8
dựa trên động cơ P2. Năm 1928, sau khi
hợp đồng vũ khí quốc phòng hết hiệu lực, Alfa Romeo gần như đứng bên bờ
vực phá sản. Alfa Romeo bắt đầu nằm dưới sự kiểm soát của Chính phủ Italy
vào năm 1933. Kể từ đó, Alfa Romeo còn nổi tiếng với những mẫu xe thiết kế
dành riêng cho cảnh sát ("Panthers" Carabinieri, Giulia Super, hay 2600 Sprint
GT…).
Sau Thế chiến II, Alfa Romeo
cố gắng khôi phục sản xuất từ
đống đổ nát do chiến tranh
gây ra. Những chiếc xe hơi
sang trọng và những chiếc xe
cỡ nhỏ bắt đầu được sản xuất
hàng loạt ở các nhà máy của
Alfa Romeo.
Trên đường đua, các xe Alfa
Romeo đã giành được rất
nhiều chiến thắng vinh quang
trong nhiều giải đấu, từ giải
Formula 1, Prototypes, Touring đến giải Fast Touring.
Tuy nhiên, đầu những năm 1970, Alfa lại một lần nữa gặp khó khăn về tài
chính. Chính phủ Italia buộc phải bán Alfa Romeo cho Fiat, tập đoàn Alfa
Lancia Spa ra đời, mở đầu cho kỷ nguyên của Alfa và Lancia. Cho đến nay,
Alfa Romeo vẫn thuộc sở hữu của Fiat.
Audi AG ra đời như thế nào?
Hiếm nhà sản xuất xe hơi nào lại có lịch sử phát triển hào hùng hay
sở hữu một bộ sưu tập những chiếc xe danh tiếng thế giới như Audi.
Không chỉ đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu, phát triển công nghệ
mới cho xe hơi, Audi còn xứng đáng là "bá chủ" trên các đường đua
đường trường.
Kỷ nguyên của Auto Union AG
Năm 1932, Audi sát nhập với Horch,
DKW và Wanderer thành lập nên Auto
Union AG. Bắt đầu một kỷ nguyên mới
của tập đoàn xe hơi hạng sang.
Năm 1933, lần đầu tiên Auto Union AG
tham gia German Automobile Exhibition.
Audi đã đem đến triển lãm một bất ngờ
lớn với một chiếc xe cỡ vừa dẫn động cầu
trước. Chiếc xe concept này đã được
phát triển và đến 1938, Audi 920 chính thức có mặt trên thị trường. Với thiết
kế hiện đại, động cơ OHC 75hp mạnh mẽ, chiếc xe có thể đạt vận tốc tối đa
140km/h. Audi 920 thực sự trở thành niềm mơ ước của những người năng
động, ưa mạo hiểm luôn khao khát có
một chiếc xe nhỏ nhưng mạnh mẽ.
Trong khi đó, DKW chủ yếu được biết
đến là một trong những nhà sản xuất xe
máy lớn nhất thế giới. Năm 1933, DKW
ra mắt mẫu xe mới sử dụng 8 động cơ
175-600cc và năm 1934, chiếc RT 100
xuất hiện trên thị trường và nhanh chóng
trở thành chiếc xe bán chạy nhất mọi
thời đại. Vị thế của DKW càng được củng
cố hơn với sự ra đời của 200 Class và NZ
(1938). Ô tô cỡ nhỏ của DKW được sản
xuất ở Berlin-Spandau và Zwickau. Các
mẫu xe 4WD của DKW, bao gồm các mẫu F2, F4, F5, F7 và F8, được phân
chia làm 2 hạng: hạng Reichsklasse (Rich class - động cơ 600cc 18hp) và
Meisterklasse (Master class - động cơ 700cc 20hp). Ngoài ra, DKW còn giới
thiệu mẫu xe mui xếp “Front Luxus”. Xe DKW Front vẫn tiếp tục dẫn đầu
trong số các xe cỡ nhỏ bán chạy nhất ở Đức: Vào những năm 1930, 250.000
chiếc DKW Front đã được tiêu thụ ở Đức.
Năm 1933, Horch giới thiệu hàng loạt động cơ V8 với dung tích xi lanh 3,0L,
3,5L và 3,8L (công suất cực đại 70-92hp). Năm 1935, Horch giới thiệu chiếc
Logo của Audi
Audi 920 - Một trong những mẫu
xe kinh điển
xe thể thao mui xếp Type 853 sử dụng động cơ I8. Năm 1937, Horch chiếm
tới hơn 50% thị phần xe trên 4.0L.
Từ trước khi sát nhập với Audi, Horch và
DKW thành Auto Union AG, Wanderer đã
sử dụng động cơ OHC do Giáo sư
Porsche thiết kế. Wanderer lần lượt giới
thiệu model W21 và W22 (1933), W40,
W45 và W50 (1935). Động cơ Horch V8
dần được thay thế bằng động cơ I6. Auto
Union ngày càng đạt được nhiều tiến bộ
vượt bậc trong việc phát triển hộp số tự
động và tìm kiếm vật liệu mới để sản
xuất thân xe.
Hơn nữa, nhận thấy việc sản xuất khung gầm bằng gỗ và nội thất bọc da quá
tốn kém, Auto Union AG hợp tác với Dynamit AG (Troisdorf) để nghiên cứu,
phát triển thân xe bằng plastic. Lần đầu tiên trong lịch sử ngành công nghiệp
ô tô Đức người ta đã tiến hành một chương trình kiểm tra độ cứng của gỗ,
thép tấm và plastic.
Auto Union AG mở rộng khá nhanh trong giai đoạn 1933-1939 với doanh thu
tăng từ 65 triệu lên 276 triệu (Reichsmark) và 23,000 nhân công. Sản lượng
hàng năm của Auto Union cũng tăng vọt: Xe máy từ 12,000 xe/năm lên
59.000 xe/năm và ô tô từ 17.000 xe/năm lên 67.000xe/năm. So với năm
1932 (năm thành lập Auto Union), năm 1938, sản lượng của Horch tăng gấp
đôi, Wanderer tăng gấp 5 lần còn DKW tăng tới 10 lần.
Sự tạm dừng và bước khởi đầu mới
Sau khi chiến tranh kết thúc, toàn bộ nhà
xưởng, thiết bị sản xuất của Auto Union
AG bị quân đội Liên Xô cũ tiếp quản.
Năm 1949, Ban Giám đốc của Auto Union
AG đã dời công ty về Bavaria và thành
lập trụ sở mới tại Ingolstadt.
Năm 1954, công ty đạt được mức siêu lợi
nhuận (400.000 DM) nhưng tháng
08/1954 ở Bavaria đã nổ ra một cuộc
đình công lớn và Auto Union đã phải chi
khoảng 920.000 DM cho vụ này. Cũng trong năm này, Friedrich Flick, cổ đông
lớn nhất của tập đoàn Sắt thép Maxhutte, đầu tư vào Auto Union.
Năm 1957, Daimler-Benz tỏ ý muốn thâu tóm Auto Union để mở rộng sản
xuất và tăng thị phần. Kế hoạch này được Flick hoàn toàn ủng hộ. Khi đó,
Flick nắm giữ trong tay 41% cổ phần của Auto Union và 25% cổ phần của
Daimler-Benz. Ngoài ra, Flick còn được nhà tư bản người Thuỵ Sỹ Ernst
Göhner, người cũng nắm giữ tới 41% cổ phần của Auto Union, hậu thuẫn.
Thiết kế tinh tế
Nội thất sang trọng
Ngày 24/04/1958, Daimler-Benz mua vào
88% cổ phần của Auto Union chỉ với giá
41 triệu DM. Chưa đầy một năm sau,
Daimler-Benz đã thâu tóm toàn bộ Auto
Union. Một nhà máy mới được xây dựng
ở Ettinger Strasse và bắt đầu đi vào sản
xuất vào tháng 07/1958. Lực lượng lao
động sản xuất của Auto Union ở
Ingolstadt tăng lên 3.700 người (1958)
và 5.700 người (1959).
Năm 1962, doanh thu của Auto Union bắt
đầu giảm sút, trong khi Daimler-Benz
ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đến năm
1964, Auto Union đối mặt với khó khăn
nghiêm trọng về tài chính. Daimler-Benz nhận thấy không thể tiếp tục gánh
vác thua lỗ cho Auto Union bèn tìm cách bán công ty này cho Volkswagen.
Kỷ nguyên mới của Audi
Sự chuyển giao quyền sở hữu Auto Union đặt dấu chấm hết cho kỷ nguyên
động cơ hai kỳ. Gần 30.000 chiếc ô tô mang nhãn hiệu DKW bị tiêu huỷ. Nhà
máy của Auto Union được dùng làm nơi lắp ráp VW Beetle. Cuối năm 1965,
Auto Union phục hồi đôi chút nhờ có sự ra đời của những chiếc xe Audi bốn
kỳ mới. Ngày 10/03/1969, Auto Union GmbH sát nhập với NSU Motorenwerke
AG, và ngày 01/01/1969đổi tên là Audi NSU Union AG. Sản lượng của cả NSU
và Audi tăng đều đặn đến cuối 1973 nhưng đến năm 1974, do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng dầu mỏ, sản lượng của Audi NSU Union AG giảm mạnh, từ
400.000 xe (1973) xuống
còn 330.000 xe (1974).
Cuối năm 1975, ngành công
nghiệp ô tô Đức bắt đầu hồi
phục trở lại. Tháng 3/1977,
chiếc xe mang nhãn hiệu
NSU cuối cùng xuất xưởng.
Kể từ đó, mọi chiếc xe do
công ty sản xuất đều mang
nhãn hiệu “Audi”. Sự ra đời
của chiếc xe thể thao 4WD
Audi Quattro năm 1980 thực
sự làm chấn động ngành sản
xuất ô tô thế giới, đưa Audi
lên vị trí hàng đầu về công
Động cơ mạnh mẽ
Xứng danh ông hoàng xe hơi
nghệ. Đây là chiếc xe thương mại đầu tiên được trang bị hệ thống dẫn động
chủ động bốn bánh.
Ngày 01/01/1985, Audi NSU Union AG được đổi tên thành AUDI AG. Trụ sở
của công ty đồng thời cũng được chuyển về Ingolstadt. Cũng trong năm
1985, lần đầu tiên công ty dạt tổng vốn đầu tư lên tới 1 tỉ DM. Mùa thu năm
1986, Audi giới thiệu Audi 80 mới với thân xe mạ kẽm. Đến năm 1986, khi
Audi 80 trở nên lạc hậu, Audi cho ra mắt chiếc Audi 89 và mẫu xe này nhanh
chóng được ưa chuộng rộng rãi. Năm 1987, Audi giới thiệu Audi 90 mới và
trang nhã với hàng loạt những tính năng mới.
Năm 1988, Audi tung ra thị trường chiếc xe hạng sang đầu tiên, chiếc Audi V8
trang bị động cơ V8 3,6L - 4 van. Năm 1992, chiếc xe Audi 80 TDI du hành
một vòng quanh thế giới, vượt qua quãng đường 40.273km với vận tốc trung
bình 85,8km/h và mức tiêu hao nhiên liệu 3,78L/100km (74,7mpg). Năm
1991, Audi đạt mức doanh thu kỷ lục 14,8 tỉ DM. Sự ra đời của Audi A4 đã
đem lại thành công rực rỡ cho Audi: Năm 1995, 120.000 chiếc Audi A4 được
tiêu thụ ở Đức.
Cuối năm 1995, danh tiếng của Audi
càng được củng cố hơn khi hai chiếc
concept TT Coupé và TT Roadster ra đời.
Tiếp đó, Audi giới thiệu chiếc compact 2
cửa Audi A3 (1996) và Audi A6 (1997).
Hiện nay, doanh số xe bán ra của Audi
trên thị trường châu Âu liên tục tăng
nhanh. Năm 2004, 779,441 chiếc Audi đã
được tiêu thụ trên toàn thế giới, trong
đó, doanh số xe bán ra của Audi tăng
mạnh nhất ở Trung Đông (tăng 58,5%), Đông Âu (tăng 19,3%) và ở châu Phi
(tăng 17,2%).
Mặc dù không thông dụng như xe của Mercedes-Benz hay BMW, nhưng ô tô
của Audi vẫn luôn là biểu tượng của công nghệ cao và thiết kế tinh tế.
Audi Quattro - mẫu xe huyền thoại
Thương hiệu Toyota ra đời như thế nào?
Những người ưa thích tìm hiểu
lịch sử các nhà sản xuất xe hơi
hẳn đã quá biết về người sáng
lập ra tập đoàn sản xuất xe hơi
hàng đầu hiện nay Toyota
Motors Company chính là người
thợ mộc tài hoa Sakichi Toyoda.
Không chỉ có vậy, khi mới được
thành lập, nhà sản xuất xe hơi
này lại mang tên Toyoda
Automatic Loom Works Ltd. Vậy
thì cái tên Toyota thực chất có
từ bao giờ?
Quay ngược thời gian trở về với năm 1936, để chón chào sự kiện chiếc xe du
lịch đầu tiên ra đời, Toyoda Automatic Loom Works Ltd. đã tổ chức một cuộc
thi thiết kế biểu trưng nhằm quảng bá hình ảnh của công ty. Yêu cầu đặt ra
đối với biểu trưng này đó là phải khơi gợi cảm giác hưng phấn giống như
đang ngồi trên một chiếc xe chạy với vận tốc cao. 27.000 thí sinh đã hưởng
ứng cuộc thi này.
Người thắng cuộc là một chàng trai đã
sáng tạo và mạnh dạn đề xuất ý tưởng
đổi tên công ty và những chiếc xe hơi
này thành "Toyota". Con trai của Sakichi
Toyoda - Kichiro Toyoda gần như ngay
lập tức bị ấn tượng bởi cái tên mới này
và tuyên bố đổi tên Toyoda thành
Toyota."Toyota" trong tiếng Nhật rõ
ràng có cách viết bay bướm hơn rất
nhiều so với từ "Toyoda". Hơn nữa, để
viết được từ "Toyota", người ta phải viết 8 nét – con số này trong văn hoá
Nhật vốn là một biểu tượng cho sự may mắn và thịnh vượng. Cách phát âm
của Toyota cũng rắn rỏi và mạnh mẽ hơn hẳn so với Toyoda. Tháng 4/1937,
Toyota chính thức được đăng ký bản quyền thương mại. Mẫu xe Model AA,
chiếc xe du lịch đầu tiên của Toyota cũng chính là chiếc xe đầu tiên mang
thương hiệu Toyota .
Tuy nhiên, đây vẫn chưa thể coi là thành
công thực sự của Toyota. Do chưa thể
định hướng được thương hiệu cũng như
cách quảng bá thương hiệu một cách
hiệu quả, rộng khắp, thương hiệu Toyota
được mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ
hiểu theo một cách khác nhau. Điều đó
có nghĩa là, cùng một thương hiệu
nhưng lại mang quá nhiều cách diễn đạt,
khiến cho hình ảnh và thông điệp của
công ty không nhất quán.
Năm 1989, nhằm tạo ra một hình ảnh và một thông điệp nhất quán về
thương hiệu Toyota, và cũng để tách biệt Toyota khỏi thương hiệu xe hơi
hạng sang Lexus, Toyota đã thiết kế mẫu logo mới – chính là logo hiện nay
của Toyota.
Logo mới này gồm 3 hình elíp lồng vào
nhau. Hai hình elíp nhỏ ở giữa, lồng
vuông góc với nhau tượng trưng cho mối
quan hệ gắn kết, sự tin tưởng lẫn nhau
giữa khách hàng và Toyota, đồng thời
tạo thành chữ T trong từ "Toyota". Hình
elíp thứ ba tạo thành nền của logo, hàm
ý sự phát triển không ngừng của Toyota
trong lĩnh vực công nghệ xe hơi cũng
như sự phát triển vượt bậc của công ty
trong tương lai.
Không chỉ có vậy, ngày nay, khi thương hiệu Toyota đã trở nên nổi tiếng toàn
thế giới và là lựa chọn hàng đầu của người tiêu dùng, 3 hình elíp này còn
biểu hiện những đặc tính rất riêng của Toyota. Đó là chất lượng, sự tin cậy và
tinh thần không ngừng đổi mới.
BMW có lịch sử phát triển như thế nào?
Tòa nhà "tổng hành dinh" của BMW được xây dựng mô
phỏng theo hình dáng của bốn chiếc xi-lanh
Trước Thế chiến II
BMW được Karl Friedrich Rapp thành lập vào tháng 10/1913. Ban đầu, thực
chất đây là một nhà máy sản xuất động cơ máy bay (Bayerische Flugzeug-
Werke) có trụ sở tại Milbertshofen, Munich. Do gặp khó khăn về tài chính,
Rapp phải cầu viện trợ giúp từ Camillo Castiglioni và Max Friz và công ty được
cơ cấu lại thành Bayerische Motoren Werke GmbH (BMW GmbH).
Năm 1918, Franz Josef Popp, một nhà tư bản
người Áo, chính thức tiếp quản BMW từ năm
1917 và đổi tên công ty thành BMW AG. Sau
Thế chiến I, Hiệp ướcVersailles (1919) nghiêm
cấm sản xuất máy bay tại Đức. Otto đóng cửa
nhà máy và chuyển sang sản xuất phanh hơi
cho tàu hoả.
Chiếc ô tô đầu tiên do BMW chế tạo là chiếc
BMW 3/15 (1928) song mãi đến tận 1933 chiếc
xe thực sự "BMW", trang bị động cơ I6, mới ra đời. Trước Thế chiến II, cả hai
chiếc sedan 327 và chiếc roadster 328 của BMW đều đã hiện đại và tân tiến
hơn rất nhiều so với những chiếc xe cùng thời khác.
Thế chiến II
BMW là nhà cung cấp chính về động cơ cho
Luftwaffe và Wehrmacht, trong đó có cả động
cơ 801. BMW cũng sản xuất cả động cơ máy
bay phản lực, động cơ BMW 003 và vũ khí tên
lửa. Cuối Thế chiến II, nhà máy BMW ở Munich
bị bom tàn phá nặng nề còn các nhà máy ở Eisenach, Dürrerhof, Basdorf và
Zühlsdorf thì bị Liên Xô cũ chiếm đóng.
Sau Thế chiến II, BMW bị quân Đồng Minh cấm mọi hoạt động sản xuất cho
đến tận năm 1952. Ở miền Đông, nhà máy của BMW ở Eisenach chịu sự quản
lý của Tập đoàn Awtowelo, một doanh nghiệp quốc doanh. Kể từ đó, các xe
của BMW mang thương hiệu EMW đến tận năm 1955. Ở miền Đông, nhà sản
xuất máy bay Bristol BAC quản lý các nhà máy của BMW, sau đó đem các
mẫu 326, 327 và 328 về Anh dưới danh nghĩa bồi thường thiệt hại chiến
tranh.
Thời kỳ sau chiến tranh
Năm 1952, lần đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ 2 BMW tái sản xuất xe
du lịch song mẫu xe này đã không thể len chân vào thị trường xe hạng nhất.
Năm 1959, BMW dự định sát nhập với Daimler-Benz song Chủ tịch Hội đồng
Quản trị của BMW - Kurt Golda đã thuyết phục được cổ đông lớn nhất
Herbert Quandt thay đổi quyết định.
Vươn ra ngoài lãnh thổ nước Đức BMW bắt đầu
sản xuất xe hơi ở Spartanburg, South Carolina
năm 1994. Nhà máy này hoạt động 6 ngày một
tuần, nghĩa là chế tạo xe hơi liên tục trong
110h/tuần, sử dụng 4.700 nhân công và sản
lượng lên tới 500 chiếc mỗi ngày. Hiện nay, nhà
máy này hàng năm xuất khẩu hơn 50,000 chiếc
BMW 3 Series, chủ yếu sang thị trường Mỹ,
Nhật, Úc, châu Phi và Trung Đông. Xe hơi của
BMW cũng bắt đầu được sản xuất ở Shenyang, Trung Quốc vào tháng
10/2003, thông qua một liên doanh của BMW với nhà sản xuất xe hơi Trung
Quốc Brilliance nhằm sản xuất BMW 3 Series và 5 Series cho thị trường nội
địa.
Tiếp quản Rover & Rolls-Royce
Từ năm 1994 đến 2000, dưới sự lãnh đạo của
Bernd Pischetsrieder, BMW mua lại Rover Group
của British Group với mục đích đưa xe vào sản
xuất hàng loạt. Kể từ đó hàng loạt mẫu xe du
lịch danh tiếng của Rover như Mini, Land Rover
và Ranger Rover và cả mẫu xe lịch sử Triumph
đều thuộc sở hữu của BMW. Tuy nhiên, công việc kinh doanh không được
suôn sẻ. Trong nhiều năm, xe Rover cạnh tranh gay gắt với BMW trong sản
xuất, giành giật thị phần và thậm chí là ở cả chiến lược tiếp thị. Nhận thấy
khó khăn trong việc phát triển Rover song song với BMW, BMW liên tiếp thay
đổi chiến lược marketing cho bộ phận Rover. Năm 2000, sau 6 năm thua lỗ
liên tiếp, BMW bán Rover cho Phoenix Consortium với giá rẻ mạt, đồng thời
bán Land Rover và Range Rover cho Ford Motors.
Đầu những năm 1990, BMW bắt đầu hợp tác
với Rolls-Royce. Kể từ đó, Rolls-Royce Silver
Seraph và Bentley Arnage sử dụng dộng cơ của
BMW. Năm 1998, BMW đã mua lại thương hiệu
Rolls-Royce với giá 40 triệu đôla.
"Chiến binh" Jeep ra đời như thế nào?
Hiện nay là thương hiệu xe hơi của DaimlerChrysler nhưng ban đầu, "jeep"
được dùng để chỉ chiếc Bantam BRC - một chiếc xe quân sự. Mẫu xe này
cũng được Willys-Overland và Ford Motor Company tham gia sản xuất trong
thời kỳ Chiến tranh Thế giới lần thứ II. Ngoài ra, người ta còn dùng từ "jeep"
để chỉ dòng xe SUV - xe thể thao đa dụng.
Chiếc xe jeep đầu tiên chính là chiếc Bantam
BRC do American Bantam sản xuất theo đơn
đặt hàng của quân đội Hoa Kỳ. Chiếc xe này
thực sự đáp ứng được mọi yêu cầu của quân
đội, nhưng đáng tiếc American Bantam Car
Company lại là một công ty "vô danh tiểu tốt".
Quân đội Hoa Kỳ cho rằng công ty này không
thể cung ứng được số lượng lớn xe Jeep. Chính
vì vậy, Willys-Overland và Ford Motor Company
đã thử sản xuất xe jeep, sau khi quan sát chiếc xe jeep của American
Bantam. Nhiều người cho rằng Willys và Ford đã tham khảo các bản kỹ thuật
của Bantam để chế tạo thế hệ jeep thứ hai này.
Cả 3 mẫu xe này (mỗi mẫu 1500 chiếc) đã được đem đi thử nghiệm, cuối
cùng Willys, do trả thầu thấp nhất, đã trúng thầu hợp đồng chế tạo xe jeep
đầu tiên. Công ty này đã
chế tạo ra mẫu xe được coi là mẫu jeep tiêu
chuẩn - mẫu xe jeep quân đội MB. Tuy nhiên,
cũng giống American Bantam, Willys cũng chỉ là
một hãng sản xuất xe hơi nho nhỏ, và quân đội
Hoa Kỳ không thể không lo ngại về khả năng
cung ứng xe jeep của hãng. Hơn nữa, vì Willys
chỉ có một xưởng sản xuất duy nhất, nên nguy
cơ nguồn cung ứng bị gián đoạn hoặc cắt đứt
Bantam BRC-40
Willys MB (1941-1945)
rất dễ xảy ra nếu xưởng sản xuất này bị phá huỷ. Đây là lý do khiến chính
phủ Hoa Kỳ đã yêu cầu Ford tham gia sản xuât xe jeep, lấy nhãn hiệu là GPW
(G = xe của chính phủ, P = chiều dài cơ sở, W = thiết kế của Willys). Như
vậy là, dưới sự chỉ đạo của Charles E. Sorensen (Phó Chủ tịch Ford trong thời
kỳ Chiến tranh thế giới lần thứ 2) đã sản xuất tới hơn 600.000 chiếc xe jeep.
Xe jeep nhanh chóng được nhân bản trên hầu khắp thế giới, với nhiều phiên
bản khác nhau. Mẫu xe này thậm chí còn phục vụ Hồng quân Liên Xô trong
suốt Chiến tranh Thế giới lần thứ 2)
Thương hiệu Jeep đã đổi chủ không ít lần. Jeep
thuộc quyền sở hữu của Willys vào năm 1941,
sau đó Willys được bán cho Kaiser năm 1953,
đổi tên thành Kaiser-Jeep. Sau đó, Jeep hoạt
động không hiệu quả, American Motors (AMC)
đã mua lại thương hiệu Jeep từ tay Kaiser vào
năm 1970. Sau đó, Chrysler Corporation đã
mua lại AMC năm 1987, chỉ một thời gian ngắn
sau khi mẫu Jeep CJ được thay thế bởi mẫu
Jeep Wrangler (YJ) do AMC thiết kế. Cuối cùng, khi Chrysler sát nhập với
Daimler-Benz, năm 1998, thương hiệu Jeep lại thuộc quyền sở hữu của
DaimlerChrysler.
Các dòng xe Jeep
Jeep quân sự
Bantam phát triển mẫu thiết kế thử nghiệm thành model BRC-40 - đây là một
chiếc xe nhẹ, dễ điều khiển. Trái ngược hẳn với BRC-40 là mẫu MA - chắc
chắn và mạnh mẽ. Đây chính là dòng xe đã phục vụ Hồng quân Liên Xô.
Trong khi đó, model MB (1942-1945) lại giành được sự tín nhiệm tuyệt đối từ
phía quân đội Hoa Kỳ. "Người hùng" của cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ 2
đã thay đổi hoàn toàn cách nhìn của người Mỹ về xe hơi. Cái tên Jeep cũng ra
đời trong thời điểm lịch sử này.
M422 là mẫu xe AMC chế tạo dành riêng cho lính thuỷ đánh bộ Hoa Kỳ - đây
là mẫu xe sử dụng động cơ V4 làm mát bằng không khí. Một chiếc Jeep khá
quen thuộc nữa chính là dòng xe Humvee hiện nay được quân đội Hoa Kỳ hết
sức ưa chuộng - HMMWW (Highly Mobile Multi-Purpose Wheeled Vehicle).
Từ thành công của dòng MB, Willys đã phát triển những chiếc xe jeep dân sự
(civillian jeep). Hầu hết các dòng xe jeep dân sự được sản xuất với số lượng
rất hạn chế (vài chục chiếc), ngoại trừ mẫu CJ-5 với hơn 600.000 chiếc được
sản xuất liên tục trong gần 30 năm. Willys cũng phát triển chiếc DJ
(Dispatcher Jeep) thành những chiếc jeep mui cứng. Sau này, vào khoảng
giữa thập niên 80, AMC lại tung ra thị trường mẫu Jeep Wrangler (doanh số
CJ-3B
khoảng 623.000 chiếc).
Jeep dân sự
Biểu tượng Ford ra đời từ bao giờ?
Suốt hơn 100 năm lịch sử nghiên cứu, chế tạo và phát triển xe hơi,
Ford đã không ít lần thay đổi mẫu mã biểu
trưng của mình.
Năm 1903, lần đầu tiên thương hiệu “Ford Motor
Company” được dùng trong các giao dịch thương
mại. Sau đó, khi mẫu xe Model A được sản xuất
hàng loạt, Ford đã có những cải tiến đặc biệt để
biến tên công ty trở thành biểu tượng của hãng
bằng cách lồng tên công ty vào một khung viền
cực kỳ thời trang vào thời đó.
Cùng với sự ra đời của hàng loạt mẫu xe mới
cũng như những thuận lợi hiếm có trong công việc kinh doanh, Ford nhận
thấy sự cần thiết trong việc đơn giản hoá biểu tượng của mình. Năm 1906,
Ford trình làng một mẫu biểu trưng hoàn toàn mới. Chữ Ford viết nghiêng 45o
được cách điệu ở chữ F và chữ D với đuôi vắt xuống thật dài nhưng cũng thật
mềm mại, bay bổng và tinh tế. Mẫu biểu trưng này được đăng ký bản quyền
tại văn phòng phát minh sáng chế Mỹ năm
1909.
Bên cạnh logo đã được đăng ký tại Mỹ, biểu
tượng Ford hình ô-van lần đầu tiên được các công
ty Perry, Thornton và Schreiber đưa vào Anh năm
1907. (Đây cũng chính là những người tiên phong
trong việc đưa Ford vào nước Anh và thành lập
Ford Ltd. tại Anh sau này). Biểu tượng hình ô-van
này được dùng để quảng cáo cho các sản phẩm
của Ford - “Dấu chứng nhận cho lòng tin và sự tiết kiệm ”.
Bằng việc kết hợp chữ Ford cách điệu với kiểu dáng hình ô-van, năm 1911,
Ford đưa ra logo và sử dụng thống nhất tại các đại lý ở Anh. Tuy nhiên, trên
các sản phẩm và trong các giao dịch thương mại, Ford vẫn dùng logo đầu
tiên cho đến tận thập niên 1920.
Đã có thời gian Ford thay thế hoàn toàn logo hình ô-van bằng logo cánh chim
hình tam giác trên các sản phẩm của mình. Logo này được thiết kế tượng
trưng cho tốc độ, sự nhẹ nhàng, sự duyên dáng và ổn định. Logo có hai màu,
vàng và xanh sậm, trên đó mang dòng chữ “Universal Car”. Henry Ford không
thích biểu tượng này, chính vì vậy chẳng bao lâu sau người ta không còn thấy
nó trên các sản phẩm của Ford.
Model A 1927 là mẫu xe đầu
tiên có gắn logo hình oval
trên lưới tản nhiệt. Với nền
màu xanh hoàng gia thẫm
tương tự với logo ngày nay
của Ford, logo này được sử
dụng trong hầu hết các mẫu
xe Ford cho đến cuối thập
niên 1950. Mặc dù logo hình
ô-van vẫn được sử dụng
thống nhất trong toàn bộ
các giao dịch thương mại,
nhưng mãi đến giữa thập niên 1970, người ta mới lại thấy biểu trưng hình ô-
van này xuất hiện trở lại trên các xe Ford.
Năm 1976, logo Ford hình ô-van với hai gam màu xanh và bạc trở thành dấu
hiệu chứng nhận thương hiệu của Ford Motor Company, nhằm thể hiện một
hình ảnh nhất quán về công ty, các nhà máy, cơ sở vật chất cũng như các
mẫu xe và tất cả những tài sản thuộc Ford Motor Company.
Ngày 17/06/2003, kỷ niệm 100 năm thành lập, Ford Motor Company đã đưa
ra một phiên bản mới của logo hình ô-van có đôi chút thay đổi, nhưng không
nhiều và không dễ nhận thấy. Logo hoàn toàn mới này có tên là "Logo Kỷ
niệm 100 năm ngày thành lập" (Ford Centennial Logo).
Sứ mệnh trường tồn của Ford: sản phẩm tuyệt vời, công ty
hùng mạnh và vì một thế giới tươi đẹp hơn.
Biểu tượng của Audi có ý nghĩa như thế nào?
Năm 1932, Auto Union quyết định chọn biểu tượng 4 hình tròn xếp lồng vào
nhau, tượng trưng cho 4 công ty tiền thân của tập đoàn sản xuất xe hơi này.
Tất cả các hình tròn có kích thước hoàn toàn bằng nhau, nằm bình đẳng trên
một đường ngang, lồng vào nhau, thể hiện sự đoàn kết và tôn trọng lẫn
nhau.
Horch
August Horch, một trong những người tiên
phong của ngành công nghiệp ô tô Đức, chính là
người đã sáng lập ra Horch Werke. Horch đã
từng giữ những chức vụ cao nhất ở nhà máy
sản xuất động cơ Carl Benz ( Mannheim). Năm
1899, Horch quyết định thành lập công ty sản xuất ô tô riêng ở Cologne, lấy
tên là Horch & Cie. Ông dời công ty về Reichenbach (1902) và Zwickau
(1904), và bắt đầu sản xuất ô
tô sử dụng động cơ 4 xilanh.
Tuy nhiên, do bất đồng quan
điểm với Hội đồng Giám sát và
Hội đồng Quản trị của công ty,
August Horch rời khỏi Horch &
Cie. Năm 1931, Horch-Werke
giới thiệu mẫu xe mới tại Paris
Motor Show: Một chiếc mui
xếp thể thao với động cơ 12
xilanh, màu vàng tươi, mui xếp
màu nâu nhạt, nội thất bọc da.
Trong phân khúc xe hạng
sang, Horch luôn dẫn đầu với
doanh số bán ra luôn cao hơn các đối thủ của mình khoảng 30%. Tuy nhiên,
sau đó công ty đã gặp khó khăn về tài chính, chủ yếu là do chi tiêu quá tay
cho các hoạt động bán hàng.
Audi
Sau khi rời khỏi Horch & Cie., Horch thành lập một công ty ô tô khác và vẫn
tiếp tục sử dụng nhãn hiệu Horch. Horch & Cie. đã kiện ông vì vi phạm bản
quyền thương hiệu. Do đó, Horch phải tìm thương hiệu mới cho công ty của
mình. Theo tiếng Đức cổ, từ "horch" có nghĩa là "lắng nghe", và Horch đã sử
dụng một từ Latin đồng nghĩa với từ "horch", đó là từ "audi", để đặt tên cho
những chiếc ô tô của ông. Tuy nhiên, rất nhiều người lại cho rằng Audi là từ
viết tắt của "Auto Union Deutschland Ingolstadt" (Ingolstadt Auto
Corporation, Germany).
Chiếc xe mang nhãn hiệu Audi lần đầu tiên xuất hiện trên thị trường năm
1910. Sau Thế chiến I, Audi mở đầu trang sử mới cho ngành công nghiệp ô
tô thế giới: Lần đầu tiên ở xe thương mại vô lăng được đặt bên trái và cần số
được đặt ở giữa xe, giúp cho việc lái xe trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Audi
bắt đầu sản xuất ô tô sử dụng động cơ 2612cc, và sau đó là động cơ 4 xi
lanh 3564 cc, 4680 cc và 5720 cc.
Năm 1923, Audi ra mắt mẫu xe đầu tiên sử dụng động cơ 6 xilanh 4655 cc.
Bên cạnh đó Audi cũng thiết kế và sản xuất hệ thống phanh hơi. Năm 1927,
lần đầu tiên động cơ 8 xilanh của Audi (còn được gọi là Imperator - Kẻ thống
trị) xuất hiện trên thị trường. Tuy nhiên, vào thời điểm này phân khúc xe
hạng sang trên toàn thế giới tụt dốc nghiêm trọng. Từ năm 1928 Audi thuộc
sở hữu của Jörgen Skafte Rasmussen, chủ sở hữu tập đoàn DKW.
DKW
Năm 1904, Jörgen Skafte Rasmussen thành lập
công ty cơ khí chế tạo máy ở Chemnitz. Năm
1916, ông bắt đầu nghiên cứu xe sử dụng động
cơ hơi nước. Mặc dù các thì nghiệm này không
thành công song Rasmussen vẫn quyết định đặt
tên công ty là DKW - Dampf Kraft Wagen
(Steam-Driven Vehicle). Năm 1919, Rasmussen
mua thiết kế động cơ mini hai kỳ của Hugo Ruppe và phát triển thành động
cơ xe máy "Das Kleine Wunder" (The Little Miracle).
Vào những năm 1920, DKW trở thành nhà sản xuất xe máy và động cơ lớn
nhất trên thế giới. Năm 1929, động cơ 8 xy lanh được sử dụng trong mẫu
Audi Zwickau và Audi Dresden. Cũng vào năm đó, những mẫu xe sử dụng
động cơ 4 xi lanh (theo bản quyền của Peugoet) và 6 xi lanh cũng được giới
thiệu.
Tuy nhiên, nắm bắt được nhu cầu của thị
trường, Rasmussen nhanh chóng định hướng
sang ô tô cỡ nhỏ. Chiếc xe thực sự "DKW"
đầu tiên được sản xuất ở Berlin-Spandau và
là xe dẫn động cầu sau. Cuối thập niên 1930,
nhà máy ở Zwickau bắt đầu phát triển mẫu
xe mới với những tính năng: động cơ xe máy
<>
600cc, 2 xilanh, 2 kỳ, nội thất bọc da và dẫn động cầu trước. Chiếc xe này do
hai nhà thiết kế của Audi – Walter Haustein và Oskar Arlt - phát triển và được
đặt tên là DKW Front. Lần đầu tiên ra mắt công chúng vào năm 1931 tại
Berlin Motor Show, DKW Front nhanh chóng trở thành chiếc xe cỡ nhỏ được
yêu thích nhất và bán chạy nhất.
Wanderer
Wanderer ban đầu là một công ty sản xuất xe
đạp được thành lập năm 1885 ở Chemnitz.
Wanderer bắt đầu chế tạo những chiếc ô tô đầu
tiên vào năm 1904. Mãi đến năm 1913, công ty
mới đi vào sản xuất hàng loạt, khởi đầu là mẫu
xe cỡ nhỏ "Puppchen".
Năm 1926, chiếc xe Wanderer Type W10 sử
dụng động cơ 1.5L 30hp xuất xưởng và nhanh chóng được thị trường đón
nhận bởi nó là sự kết hợp của những công nghệ
hiện đại nhất lúc bấy giờ.
Để đáp ứng nhu cầu tăng vọt của thị trường,
Wanderer đã xây dựng một xưởng sản xuất ở
Siegmar ngoại ô Chemnitz với công suất 25
xe/ngày. Tuy nhiên, đến cuối thập niên 1920,
Wanderer cũng lâm vào khủng hoảng.
Ảnh audi.com
Ôtô ra đời như thế nào?
Không phải là phát minh trong ngày một ngày hai, cũng không phải của một
nhà phát minh nào đó, lịch sử của xe hơi là một cuộc cách mạng trên toàn
cầu. Theo ước tính thì có khoảng 100 nghìn bằng sáng chế đã được cấp cho
những người phát minh ra những chiếc ôtô hiện đại ngày nay. Tuy nhiên,
chúng ta hãy ngược dòng thời gian để tìm hiểu về chiếc ôtô từ những ngày sơ
khai nhất.
Vào năm 1769, chiếc xe tự hành đầu tiên đã được
một kĩ sư cơ khí người Pháp tên là Nicolas Joseph
Cugnot (1725-1804) phát minh nhằm phục vụ cho
mục đích quân sự. Chiếc xe này sử dụng động cơ
hơi nước do kĩ sư Brezin thuộc xưởng quân khí Paris
chế tạo. Về cấu tạo, nó có 3 bánh lớn và có thể
chuyển động với tốc độ tối đa 2 dặm rưỡi một giờ.
Hệ thống động cơ hơi nước và bình hơi tách biệt với nhau và được đặt vào
phía đầu mũi xe. Với tốc độ và công suất lớn, chiếc xe hơi nước này được
quân đội Pháp sử dụng để kéo những khẩu pháo khổng lồ. Tuy nhiên, nhược
điểm của nó là cứ 10 hoặc 15 phút lại phải dừng để tiếp nước và khởi động
lại động cơ. Năm 1770, Cugnot đã cho sản xuất chiếc xe hơi nước 3 bánh chở
khách đầu tiên với sức chứa 4 người cho mỗi lần chở.
Năm 1771, Cugnot là người đầu tiên trên thế giới gặp tai nạn khi lái xe ôtô.
Chiếc xe đã đâm vào một bức tường đá trên đường di chuyển. Tiếp đó là một
loạt những điều không may xảy ra với nhà phát minh này: một trong những
nhà tài trợ của Cugnot đã qua đời trong khi những người khác thì bị lưu vong
nước ngoài do những biến động chính trị. Điều này đã khiến cho công việc
của Cugnot phải dừng lại do không còn tiền để trang trải cho mọi chi phí.
Sau Cugnot cũng đã có nhiều người tiếp tục sáng chế và cải tiến xe hơi nước
và nó đã trở thành một phương tiện di chuyển phổ biến ở nhiều nước trong
những năm sau đó.
Vào giữa những năm 1832-1839, Robert Anderson,
một nhà phát minh người Scotland đã cho ra đời
chiếc xe chở khách chạy bằng điện thô sơ đầu tiên
trên thế giới. Năm 1835, một giáo sư người Hà Lan
tên là Stratingh đã thiết kế một chiếc xe chạy bằng
điện có công suất nhỏ, và nó được trợ lý của ông là
Christopher Becker lắp ráp chạy thử. Năm 1842, hai
nhà phát minh Thomas Davenport người Mỹ và Robert Davidson người
Scotland đã cho ra đời bởi những chiếc xe điện hoàn thiện hơn. Tuy
nhiên, loại xe của họ lại sử dụng pin điện không sạc lại nên rất tốn kém về chi
phí sử dụng.
Chiếc xe hơi nước của
Cugnot
Pháp và Anh là những quốc gia đầu tiên ủng hộ cho việc phát triển xe ôtô
chạy bằng điện. Tuy nhiên, mãi tới năm 1895 Mỹ mới bắt đầu để ý tới loại
phương tiện này, sau khi vào năm 1891, nhà phát minh A. L. Ryker cho ra đời
chiếc xe điện ba bánh đầu tiên tại nước này. Sau đó, một nhà phát minh khác
là William Morrison sản xuất chiếc xe điện có thể chở được 6 hành khách. Vào
khoảng giữa những năm 1890-1900, nhiều cải tiến về chiếc xe điện đã diễn
ra ở đất nước này và điều này đã khiến cho ngành công nghiệp sản xuất và
dịch vụ của loại xe này rất phát triển. Chẳng hạn, vào năm 1897, một đội taxi
của thành phố New York đã được thành lập bởi Công ty chuyên chở hàng hóa
và hành khách bằng xe điện của Philadelphia.
Bên cạnh và có thể gọi là song song với sự phát
triển của xe chạy bằng điện là sự phát minh và phát
triển của xe ôtô chạy bằng động cơ dầu. Và có lẽ,
thành công và nổi tiếng nhất là những chiếc xe do
Gottlieb Daimler và Karl Benz phát minh bởi chúng
có nguyên tắc hoạt động và hình dáng giống với
những chiếc xe hiện đại ngày nay.
Tuy nhiên, trước khi nói về những phát minh của
Daimler hay Benz, không thể không nhắc đến
Nicolaus Otto, người đã phát minh ra động cơ đốt
trong. Động cơ đốt trong bốn kỳ được Otto phát
minh vào năm 1876 và nó đã trở thành một trong
những phát minh vĩ đại nhất trong lĩnh vực động cơ
xe máy. Đầu tiên nó được áp dụng cho những chiếc
xe gắn máy, nhưng sau đó, cùng với sự phát triển
của ôtô, loại động cơ này được cải tiến và áp dụng
cho cả những chiếc xe ôtô sử dụng nhiên liệu lỏng.
Trở lại với những chiếc xe chạy bằng động cơ dầu. Năm 1885, kĩ sư cơ khí
người Đức Karl Benz đã thiết kế và cho ra đời chiếc xe ôtô chạy bằng động cơ
đốt trong đầu tiên trên thế giới. Ban đầu nó được thiết kế với ba bánh, nhưng
đến năm 1891, Benz đã cải tiến và biến nó trở thành chiếc xe ô-tô bốn bánh.
Cũng vào năm 1885, Gottlieb Daimler cùng với đồng
sự của mình là Wihelm Mayback đã cải tiến động cơ
của Otto trở thành loại động cơ có thể sử dụng cho
xe ôtô. Động cơ Daimler-Maybach có kích thước
nhỏ, trọng lượng nhẹ và sử dụng một bộ chế hòa khí
phun dầu, ngoài ra, nó còn có một xi-lanh đứng.
Chính thiết kế có tính ứng dụng cao đó đã giúp cho
các nhà sản xuất ô-tô nói chung và Daimler nói riêng
tạo ra một cuộc cách mạng trong thiết kế kiểu dáng
xe ô-tô. Tháng 8 năm 1886, Daimler đã ứng dụng
động cơ này vào một chiếc xe buýt thông dụng và biến nó trở thành chiếc xe
ô-tô bốn bánh đầu tiên trên thế giới có kiểu dáng như những chiếc xe hiện
đại ngày nay.
Một chiếc xe chạy bằng
động cơ đốt trong
Chiếc xe đầu tiên của
Daimler
Fiat có lịch sử phát triển như thế nào?
FIAT (Fabbrica Italiana Automobili Torino) được thành lập ngày 11/07/1899)
tại Turin, Italy. Người đứng đầu tập đoàn này là Giovanni Agnelli, người sáng
lập và đồng thời là Chủ tịch kiêm Giám đốc Điều hành đầu tiên của Fiat. Năm
1900 đánh dấu sự ra đời của nhà máy Fiat đầu tiên tại Carso Dante với 150
nhân công. Bốn năm sau, năm 1904, cả thế giới được biết đến logo hình ovan
màu xanh của Fiat.
Năm 1908, Fiat khánh thành nhà máy sản xuất
xe hơi đầu tiên của mình tại hoa Kỳ. Công việc
của công ty phát triển nhanh chóng tại đất
nước được coi là ông tổ của ngành xe hơi này.
Để đáp ứng được nhu cầu của thị trường Hoa
Kỳ cũng như tốc độ sản xuất của nhà máy, Fiat
đã xây dựng thêm một số nhà máy chuyên sản
xuất linh kiện, phụ tùng xe hơi.
Chỉ một vài năm sau đó, Fiat bắt tay vào việc
cải tổ công nghệ. Chính những nỗ lực này của
Fiat khiến nó trở thành một trong những nhà
sản xuất xe hơi đáng gờm nhất, đồng thời
những chiếc xe của Fiat luôn dẫn đầu trong
việc phá các kỷ lục của ngành công nghiệp xe
hơi, không chỉ trong lĩnh vực công nghệ mà còn
cả trên các đường đua.
Năm 1916, Fiat khởi công xây dựng xưởng chế
tạo xe hơi mang tên Lingotto. Việc xây dựng và trang bị diễn ra suốt 6 năm
trời. Nhà máy cao 5 tầng này không chỉ là xưởng sản xuất xe hơi lớn nhất
châu Âu mà còn nhanh chóng trở thành biểu tượng của ngành công nghiệp
xe hơi Italy. Cũng trong thời gian này, Fiat bắt tay vào những lĩnh vực mới –
xe động cơ điện, xe thương mại, xe lửa và thậm chí là thép. Công ty tiếp tục
vươn tới thị trường Liên Xô.
Những biểu tượng đầu tiên
của tập đoàn Fiat
Trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ 1, sản
xuất của Fiat chủ yếu phục vụ mục đích quân
sự. Fiat lâm vào khủng hoảng trầm trọng khi
chiến tranh kết thúc nhưng nhà sản xuất xe hơi
này nhanh chóng phục hồi và lấy lại được vị thế
của mình – Đó là nhờ chính sách cắt giảm chi
phí sản xuất được phát động năm 1923, khi đó
Giovanni Agnelli đã được đề bạt là Tổng Giám
đốc Điều hành của Fiat. Fiat quyết định tiến một
bước xa hơn: sản xuất xe hơi trên quy mô lớn
để cắt giảm chi phí tối da, nhờ đó hạ giá thành
sản phẩm. Thời gian này Fiat còn được biết đến
với những chương trình chăm sóc sức khỏe, câu
lạc bộ thể thao và các trường kỹ thuật.
Dưới chính sách của nhà cầm quyền Mussolini,
Fiat buộc phải thu hẹp quy mô hoạt động của
mình và nhắm vào thị trường nội địa. Công nghệ sử dụng trên những mẫu xe
thương mại và xe tải nhanh chóng được cải tiến và thay đổi để đáp ứng nhu
cầu của người tiêu dùng trong nước.
Chiến tranh Thế giới thứ 2 ảnh hưởng không nhỏ tới cơ cấu và quy mô sản
xuất của Fiat. Nhiều nhà máy, xưởng sản xuất bị phá hủy. Năm 1945,
Giovanni Agnelli qua đời. Người lên nắm quyền thay ông là Vittorio Valletta đã
đề ra kế hoạch tái thiết vào năm 1948. Năm 1958, Fiat đầu tư vào cả hai lĩnh
vực: xe hơi và máy nông nghiệp. Trong thời gian này, Italy trở thành trung
tâm phát triển kinh tế hàng đầu châu Âu và chính ngành công nghiệp xe hơi
nước nhà là nguồn động lực thiết yếu dẫn đến sự phát triển vượt bậc về kinh
tế đó.
Cháu nội Giovanni Agnelli – người có cùng tên
với ông nội tiếp tục làm rạng danh dòng họ
Agnelli khi trở thành chủ tịch Fiat năm 1966.
Giovanni cháu tập trung toàn bộ nguồn lực của
công ty vào phát triển công nghệ tự động trong
sản xuất xe hơi. Nhờ đó, Fiat không chỉ đối phó
được với cuộc khủng hoảng nhiên liệu diễn ra
trong thời gian đó mà còn trở thành một đối thủ
đáng gờm trong lĩnh vực công nghệ sản xuất xe
hơi. Những năm 70, xe Fiat chiếm tới 80-90%
thị phần tại đất nước mình. Chính nhờ những chính sách của Fiat mà tỉ lệ sở
hữu xe hơi của Italy tăng lên đáng kể, từ 96 người/ xe lên 28 người/ xe.
Năm 1978, Fiat giới thiệu hệ thống lắp ráp tự động sử dụng hệ thống robot
(Robogate). Năm 1979, bộ phân chế tạo xe hơi được tách ra thành một công
ty độc lập có tên là Fiat Auto S.P.A, với quyền sở hữu các thương hiệu Fiat,
Lancia, Autobianchi, Abarth, Ferrari. Ban đầu, Fiat chỉ sở hữu 50% cổ phần
của Ferrari, nhưng sau đó, con số này nhanh chóng tăng lên thành 87%.
Giovanni Agnelli, ông tổ của
tập đoàn Fiat
Bravo, một tác phẩm mới
của Fiat
Năm 1984, Fiat tiếp quản Alfa Romeo và đến năm 1993 là thương hiệu
Maserati danh tiếng.
Cuộc khủng hoảng đầu thập niên 1990 khiến
cho công ty chuyển hướng mục tiêu sang thị
trường thế giới, với 60% doanh số thu được từ
thị trường nước ngoài. Năm 1996, Cesare Romiti
thay thế vị trí của Giovanni, nhưng Giovanni vẫn
giữ chức vị Chủ tịch Danh dự. Tổng hành dinh
của Fiat được chuyển từ Corsi Marconi về
Palazzina Fiat, Lingotto năm 1997. Năm 1999,
kỷ niệm 100 năm ngày thành lập công ty, Fiat
đã thiết kế mẫu logo mới vẫn mang màu xanh
truyền thống, nhưng với dáng vẻ mới – hình
tròn.
Kể từ năm 2000 đến nay, Fiat hầu như không trải qua nhiều thay đổi đáng
kể, ngoài những mẫu xe mới vẫn lần lượt ra mắt người tiêu dùng và một mục
tiêu nhất quán – sự đổi mới và công nghệ vượt trội để vững bước trong thế
kỷ 21.
Logo thứ 14, kỷ niệm 100
năm của tập đoàn Fiat
Acura ra đời như thế nào?
Cho dù đã khẳng định được vị thế của mình trên đất Mỹ, Honda vẫn quyết
định tạo ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển của mình khi thành
lập nhãn hiệu Acura cho riêng thị trường Bắc Mỹ. Vậy là từ tháng 3/1986,
Acura được Honda sử dụng như một nhãn hiệu độc lập cho các dòng xe hạng
sang ở Mỹ, Canada, Mexico và Hồng Kông, bao gồm xe đa dụng, xe gia đình
và xe thể thao.
Chỉ một năm sau khi ra đời, Acura đã nhanh
chóng khẳng định vị thế của mình khi chiếc
Acura Legend đoạt danh hiệu Xe nhập khẩu của
năm (Import Car of the Year) và mẫu Integra
được bầu chọn vào top 10 của tạp chí Car and
Driver.
Năm 1990, chỉ vài năm sau khi ra mắt thị
trường Bắc Mỹ, đại lý của Acura 5 năm liên tiếp
đứng đầu bảng xếp hạng Chỉ số Hài lòng của
Khách hàng. Một năm sau, chiếc Acura Legend giành giải "Xe nhập khẩu Uy
tín nhất của năm" của Motor Trend. Tiếp đến, năm 1997, Honda giới thiệu
mẫu Integra Type-R. Đây là mẫu xe có tỉ số công suất: dung tích xi lanh hp/l
cao nhất lúc bấy giờ (108hp/l). Chiếc xe thể thao NSX được xuất xưởng vào
cuối thập niên 1990 được coi là phá vỡ mọi công thức toán học và khoa học.
Ngay Motor Trend cũng từng nhận định đây là chiếc xe thể thao hàng đầu
của mọi thời đại. Chiếc siêu xe với thân xe bằng nhôm này là sự kết hợp hoàn
hảo giữa sự thoải mái hoàn hảo và độ an toàn tối đa cho người sử dụng.
Một chiếc Acura NSX
Thành công tiếp nối thành công, Acura tiếp tục tấn công vào thị trường xe
thể thao đa dụng với mẫu xe huyền thoại MDX. Năm đầu tiên của thế kỷ 21
chứng kiến chiếc MDX giành danh hiệu Xe thể thao đa dụng uy tín nhất năm
2001 do tạp chí Motor Trend bình chọn.
Logo của thương hiệu Acura
Năm 2003, Acura khiến cho những vị khách hàng khó tính nhất cũng phải hài
lòng khi trang bị cho mẫu xe mới TL với những tiện nghi như Bluetooth và
đầu DVD. Ngay lập tức mẫu xe này trở thành chiếc xe hạng sang bán chạy
nhất Hoa Kỳ vào năm 2004.
Không tự mãn với những gì mình đạt được, sau tiện nghi và độ an toàn đó là
những cải tiến về sức mạnh của động cơ. Năm 2004, chiếc Acura RL 2005 trở
thành chiếc xe được mong đợi nhiều nhất với động cơ mạnh mẽ và hệ thống
dẫn động bốn bánh chủ động SH-AWD™ được coi là cuộc cách mạng về động
cơ ở Bắc Mỹ.
Trong 5 năm từ 2000 đến 2005, Acura xếp vị trí thứ 3 đến thứ 8 trong bảng
phân hạng mức độ hài lòng của khách hàng tại Mỹ. Năm 2005, doanh số toàn
cầu của Acura đạt 743.000 chiếc và 11 tháng đầu năm 2006 là 661.500.
Từ năm 2004-2006, chiếc TSX trong suốt 3 năm liền được bình chọn vào top
10 của Car and Driver. Acura RDX cũng không chịu kém phần khi giành được
danh hiệu "Xe An toàn nhất" do Viện An toàn giao thông Quốc gia Mỹ (IIHS)
bình chọn cho xe SUV hạng trung.
Acura RDX
Sau gần hai thập kỷ nghiên cứu và phát triển, sự ra đời của Acura là bằng
chứng cho sự nỗ lực không ngừng của Honda trong việc chinh phục những
thượng đế khó tính tại thị trường Bắc Mỹ. Acura không chỉ đơn thuần là
thương hiệu xe hơi độc lập của Honda, mà hơn thế nữa nó còn là thương hiệu
xe hơi hạng sang đầu tiên của Nhật Bản. Có thể nói, Acura là kẻ tiên phong
đặt những viên gạch đầu tiên, là kẻ dẫn đường cho những chiếc xe quốc tịch
Nhật Bản trong con đường xâm chiếm thị trường Bắc Mỹ. Theo chân Acura,
Lexus (Toyota) và Infiniti (Nissan) mới biết tìm đường sang Bắc Mỹ.
Khi tên tuổi của Acura đã được chứng nhận bởi những người Mỹ khó tính,
Honda quyết định đưa đứa con tài năng của mình sang chinh phục thị trường
Mexico (2004) và Trung Quốc (2006). Gần đây, Honda Motor cũng thông báo
sẽ bắt đầu bán các sản phẩm mang nhãn hiệu Acura tại quê hương vào năm
2008. Honda dự tính thiết lập 2.400 đại lý Acura trên toàn quốc và doanh số
khoảng 800.000 xe/năm. Hiện tại, các sản phẩm của Acura được bán ở Nhật
dưới tên khác như mẫu RL là Honda Legend, Acura TL là Inspire còn mẫu xe
thể thao đa dụng MDX là Accord.
Một chiếc Legend
Như vậy, không phải đơn giản mà Acura được vinh dự đứng trong hàng ngũ
những dòng xe hạng sang. Thành công đó, bên cạnh sự tiếp sức của công ty
mẹ thông qua những nền tảng ban đầu, phần lớn là nhờ có những nỗ lực của
bản thân. Giờ đây, Acura có thể tự hào khi được ngành công nghiệp xe hơi
toàn thế giới coi là một trong những thương hiệu chuyên sản xuất những
chiếc xe với thiết kế tinh tế đầy sức trẻ và sáng tạo, động cơ mạnh mẽ, và
được sản xuất hết sức tinh xảo.
Citroen ra đời như thế nào?
Tập đoàn sản xuất ôtô Citroen ngày nay không
còn nữa do nó bị tập đoàn sản xuất lốp xe
Michelin mua lại từ trước chiến tranh thế giới
thứ II. Tuy nhiên, cái tên Citroen còn tồn tại và
hiện vẫn đang là một trong những thương hiệu
ôtô quen thuộc với nhiều người. Vào những
năm 20, 30 của thế kỷ XX, ôtô Citroen tràn
ngập ở Pháp và cả châu Âu. Vào thời điểm đỉnh
cao, thị phần của ôtô Citroen tại Pháp lên tới
gần 50%, con số mà nhiều đại gia lớn nhất thế giới cũng không dám mơ tới.
A.G.Citroen và niềm đam mê cơ khí
André Gustave Citroen sinh ngày 5/2/1878 tại Paris, cụ nội của André Gustave
Citroen vốn là người xứ Amsterdam (Hà Lan) chuyên sống bằng nghề buôn
bán hoa quả. Năm 1870, trong lần đi mở cửa hàng kinh doanh tại Warzava,
ông Levie Citroen đã quen và cưới bà Amalia, một phụ nữ người Balan. André
Gustave Citroen là con thứ ba của ông bà Levie Citroen. André Gustave
Citroen được gia đình cho nhập học tại trường Lyce’e Condorcet nổi tiếng chỉ
dành cho giới thượng lưu và giàu có. Chính tại ngôi trường này André
Gustave Citroen đã học cùng và làm quen với cậu bé Louis Renault cùng tuổi
và sau này trở thành đối thủ cạnh tranh lớn nhất của ông trong lĩnh vực xe
hơi.
Học hết phổ thông, năm 1898 Citroen được
tuyển chọn vào trường Đại học bách khoa
Polytechnique Paris. Sau khi tốt nghiệp, André
Gustave Citroen có ý định làm công chức tại cơ
quan Nhà nước chính quyền nhưng không
được. Ông lang thang đi tìm việc và trong cậy
vào người chị gái lấy chồng và sống tại Balan.
André Gustave Citroen làm việc tại một xưởng
cơ khí của người anh rể tại Glowno.
Vốn là con nhà thợ kim hoàn, lại học bách khoa
nên André Gustave Citroen tỏ ra rất khéo tay và thông minh với lĩnh vực cơ
khí. André Gustave Citroen thấy rằng các bánh răng bằng gỗ tuy dễ làm
nhưng rất chóng hỏng.Vì vậy ông đã tìm tòi nghĩ cách sản xuất bánh răng
chuyên dụng từ kim loại và là người đầu tiên phát minh các loại bánh răng
kim loại chuyên dụng. Ngay lập tức ông đăng ký bản quyền sáng chế và bắt
đầu đi vào con đường sản xuất chế tạo hàng cơ khí.
Đến với ngành công nghiệp sản xuất xe hơi
Biểu tượng của Citroen
A.G.Citroen
Năm 1907, André Gustave Citroen đến với
ngành sản xuất xe hơi khá tình cờ, thông qua
người chú ruột, ông biết có một nhà máy
chuyên sản xuất phụ tùng và động cơ ôtô bị
phá sản. André Gustave Citroen đã quyết định
dùng phần lớn tài sản được thừa kế để đầu tư
vào nhà máy sản xuất cơ khí này. Sự nghiệp
sản xuất và kinh doanh trong ngành công
nghiệp xe hơi của André Gustave Citroen bắt
đầu từ đó. Từ năm 1908, André Gustave Citroen trực tiếp làm Giám đốc công
ty phụ tùng ôtô Mors này.
Năm 1924, công ty cơ khí ôtô Mors được chuyển đổi thành công ty cổ phần
và André Gustave Citroen là người nắm giữ đa số cổ phần. Ông cũng là người
trực tiếp điều hành sản xuất và kinh doanh của công ty. Bắt đầu từ đây là
những năm hoàng kim của xe ôtô Citroen. Ông chủ André Gustave Citroen trở
thành nổi danh trong giới công nghiệp ôtô châu Âu và thế giới.
Chỉ trong vòng 10 năm, từ năm 1919 đến 1929, công ty xe hơi Citroen đã
phát triển với một tốc độ chóng mặt. Mặt bằng sản xuất và lắp ráp của công
ty đã tăng từ 198.000 m2
lên 850.000 m2
. Số lượng nhân công tăng từ 4.000
lên hơn 32.000 người. Thay vì mỗi năm xuất xưởng vài nghìn xe thì 10 năm
sau, năng lực sản xuất của Citroen đã là 102.891 chiếc. Và điều kỳ diệu là
Citroen sản xuất xe nào là bán được ngay xe đó.
Thành công nhờ tài marketing
Cho đến đầu những năm 1930, Citroen đã bán
được gần 1 triệu chiếc xe. Mặc dù vậy André
Gustave Citroen còn cho rằng tiềm năng vẫn rất
lớn. Ông chủ trương phải tăng cường marketing
và quảng cáo để "đánh thức sự chú ý của cả 40
triệu người dân nước Pháp".
André Gustave Citroen không chỉ nhằm vào một
đối tượng khách hàng, những người giàu có,
khá giả. Với ông, toàn dân đều là đối tượng để
thu hút, quảng cáo. Nếu không là khách hàng trực tiếp thì cũng là khách
hàng tiềm năng. Thương hiệu xe hơi Citroen phải đi vào tiềm thức của mỗi
người dân, bất kể già trẻ, đó là mong ước là mục tiêu thương hiệu của ông
chủ đầy tham vọng.
André Gustave Citroen quảng cáo nhiều nhưng không hẳn là nhằm vào một
loại xe, một sản phẩm cụ thể. Ông quảng bá thương hiệu Citroen. Những gì
mà các doanh nghiệp lớn ngày nay vẫn làm và gọi là quan hệ công chúng thì
André Gustave Citroen đã thực hiện cách đây gần 90 năm.
André Gustave Citroen đặc biệt năng động và sáng tạo với những ý tưởng
Một trong những sản phẩm
đầu tiên của Citroen
Citroen C-Airlounge
mới để quảng bá thương hiệu. Ngày nay trong nhiều nghiên cứu cũng như
sách giáo khoa về Marketing và thương hiệu, những gì mà André Gustave
Citroen đã làm luôn được coi là mẫu mực. Citroen là một trong rất ít doanh
nghiệp lúc đó có cả một bộ phận quảng cáo chuyên nghiệp. André Gustave
Citroen đã thuê Pierre Euge’ne Louys, một nhà báo, một chuyên gia thông tin
làm giám đốc quảng cáo cho mình.
Sử dụng cả tháp Eiffel kỳ vĩ để quảng cáo
André Gustave Citroen đã dùng mọi hình thức
và phương tiện quảng cáo để xây dựng và
quảng bá thương hiệu xe ôtô Citroen của mình.
Ông đặc biệt chú ý đến quảng cáo trên các tờ
báo nổi tiếng như Le Figaro, Le Petit Parisien,
Le Temps, Le Matin hay L’Illustration. Số liệu
thống kê cho thấy tổng số tờ báo được phát
hành lên tới con số 15 triệu bản.
Để quảng bá thương hiệu, André Gustave
Citroen đặc biệt quan tâm đến hình ảnh của các
chi nhánh, đại lý bán xe. Ông sử dụng kiến trúc
sư nổi tiếng Georges Wyho chuyên thiết kế hình
ảnh của các toà nhà chi nhánh, cửa hàng bán
xe Citroen. Mỗi lần khai trương một Citroen -
Automobilsalon, André Gustave Citroen đều coi
đó là sự kiện quan trọng và là cơ hội để quảng
bá thương hiệu thật rầm rộ. Ông còn xuất bản
tờ tin riêng của hãng mang tên Le Citroen in
thật đẹp và sang trọng để phát tặng cho khách
đến thăm quan xe Citroen.
André Gustave Citroen cũng tự tạo ra các sự kiện, đã tổ chức Triển lãm xe
Citroen năm 1931 trên khu đất rộng hơn 15.000 m2
giữa quảng trường Place
de l’ Europa.André Gustave Citroen rất chú ý chăm sóc hệ thống đại lý bán
hàng. Và ông có ý tưởng thường xuyên tổ chức các chuyến tham quan xưởng
sản xuất và xưởng lắp ráp xe Citroen dành cho đại lý và khách hàng ruột.
Cũng với cách nghĩ đó, André Gustave Citroen còn tổ chức những chuyến
thám hiểm châu Phi, những cuộc chinh phục sa mạc Sahara với hàng nghìn
cây số. Đương nhiên ông chỉ dùng xe ô tô Citroen để phục vụ cho các đoàn
đi.Ông đã táo bạo sử dụng cả tháp Eiffel kỳ vĩ để phục vụ cho mục đích
quảng cáo thương hiệu Citroen.
Vào một tối tháng 7 năm 1925 cả thành Paris đột nhiên sáng rực bởi ánh đèn
từ tháp Eiffel với dòng chữ Citroen khổng lồ cao tới 25 m. André Gustave
Citroen đã phải dùng tới gần 250.000 chiếc bóng đèn các màu, gần 600 km
dây điện các loại. Tổng diện tích được chiếu sáng là khoảng 1.200 m2.
Từ đó trở đi cho tới năm 1936, Citroen vẫn thường xuyên sử dụng đèn trang
Tháp Eiffel và dòng chữ
Citroen rực sáng
trí tại tháp Eiffel để quảng cáo cho thương hiệu và các dòng xe mới ra của
hãng. Năm 1989, kỷ niệm tháp Eiffel tròn 100 tuổi, người dân Paris và khách
du lịch khắp mọi nơi trên thế giới lại có dịp xem lại hình ảnh thương hiệu
Citroen được quảng cáo bằng đèn theo mẫu cũ trước kia của Gustave Citroen,
người đã khai sinh ra nó.
Báo đốm Jaguar ra đời như thế nào?
Ngày 04/09/1922, tại một thị trấn phía nam bờ biển vùng Blackpool (Anh),
hai thanh niên trẻ tuổi nhưng rất say mê motor William Lyons và William
Walmsley đã thành lập nên Swallow Sidecar với tham vọng sản xuất
những chiếc xe 3 bánh (sidecar). Lúc đầu, Swallow Sidecar Company chỉ có
hai tầng gác tại Blackpool để làm trụ sở và xưởng. Toàn bộ công việc được
thực hiện bằng tay. Nhắc đến Jaguar không thể không nhắc đến Arthur
Whittaker, người đã giúp những chiếc xe đầu tiên của Swallow Sidecar đến
với khách hàng một cách nhanh chóng và ấn tượng nhất.
Năm 1926, do nhu cầu phát triển kinh doanh,
Swallow Sidecar đổi tên thành Swallow
Sidecar and Coachbuilding Co. và tìm kiếm
một xưởng sản xuất mới. Tại đây, hãng đã sản
xuất thân xe cho rất nhiều nhà sản xuất xe hơi
khác, trong đó có Morris, Fiat, Wolseley, Swift,
và Standard.
Bằng cách dùng nhôm dập để sản xuất vỏ
sidecar, Swallow Sidecar nhanh chóng trở nên
nổi tiếng với doanh số không ngừng tăng vọt.
Năm 1927, khi Herbert Austin cho ra đời chiếc
xe hạng nhỏ Austin Seven giá rẻ, dễ lái và tiện
dụng nhưng thiếu cá tính, Lyons chế tạo một chiếc xe 2 chỗ, gắn thân
Swallow Sidecar trên khung gầm của Austin Seven. Ngay lập tức, một đơn đặt
hàng 500 chiếc được đặt lên bàn Arthur Whittaker.
Đây cũng là điểm khởi đầu cho mối liên minh mới giữa Lyons và Bertie Henly,
người điều hành garage nổi tiếng nước Anh, Henlys. Với giá 175 bảng hay
185 bảng cho phiên bản mui cứng, Austin Seven Swallow luôn “cháy hàng”.
Không dừng lại ở đó, Lyons còn tiếp tục cho ra mắt mẫu xe có vỏ Swallow
gắn trên khung gầm lớn hơn, mang tên Morris Cowley. Ảnh hưởng của
Swallow ngày càng lớn khi Austin Seven Swallow Saloon trình làng năm 1928
và tiếp tục gặt hái thành công.
Một chiếc SS1
Sir William Lyons (1901-
1985)
Sau một thời gian liên kết sản xuất với các hãng xe khác, Lyons không muốn
chế tạo vỏ xe của mình trên khung gầm của mẫu xe khác nữa: ông muốn
nhắm tới những chiếc xe cá tính chứ không đơn thuần chỉ sản xuất xe thể
thao. Lyons đã khôn ngoan liên kết với Standard Motor Company để chế tạo
chiếc xe hoàn chỉnh đầu tiên - chiếc SS1, được chế tạo đựa trên động cơ 6
Standard xi lanh và sự thừa hưởng đầy sáng tạo của thân xe Standard. Chiếc
xe này được ra mắt công chúng năm 1931 tại triển lãm xe hơi London.
Năm 1933, tên của công ty một lần nữa lại được
đổi thành SS Cars Ltd dưới sự điều hành của
Giám đốc Lyons. Năm 1936, SS Cars hoàn toàn
thuộc sở hữu của Lyons.
Năm 1935, lần đầu tiên cụm từ "Jaguar" được
biết đến trên các mẫu xe của hãng. SS Cars bắt
tay vào chế tạo nhiều hạng xe khác nhau, bao
gồm limousine, xe mui trần, xe thể thao, với
động cơ 1.5l, 2.5l và 3.5l, đồng thời nỗ lực nâng
công suất động cơ từ 75hp lên 105hp. Không chỉ
có vậy, Lyons còn tập trung thiết kế vỏ xe sao
cho thật ấn tượng, khác biệt hoàn toàn so với các mẫu trước đó.
Chiến tranh Thế giới thứ 2 nổ ra, SS Cars tập trung cho chiến tranh và quay
trở về sản xuất dòng xe sidecar. Khi chiến tranh kết thúc, Lyons quyết định
đổi tên SS Cars thành Jaguar Cars Ltd do tên viết tắt của hãng trùng với
tên gọi của lực lượng phát xít Đức.
Jaguar là tên gọi loài báo đốm nổi tiếng châu Mỹ, biểu tượng của sức mạnh
và quyền lực trong văn hóa các nước Nam Mỹ. Người dân ở đây tin rằng,
Jaguar là điểm nối giữa sự sống và cái chết. Jaguar sinh ra để bảo vệ các
hoàng đế. Dù Lyons không thực sự thích nhưng cuối cùng, cái tên "Jaguar"
vẫn được thông qua. Ngay sau khi ra mắt tại khách sạn Mayfair, London, SS
Jaguar nhận hàng loạt đơn đặt hàng bởi nó có giá chỉ bằng một phần tư
Bentley dù không hề thua kém về chất lượng. Thế nhưng, mãi 11 năm sau,
Lyons mới chính thức đưa biểu tượng chú báo đốm Bắc Mỹ đang vồ mồi lên
chiếc Jaguar Mark VIII 1956. Biểu tượng đó đã đi theo Jaguar 30 năm sau và
là hình mẫu để các kỹ sư thiết kế theo đúng vóc dáng mạnh mẽ, tràn trề
nhựa sống và hoang dã của loài vật được mệnh
danh là chúa tể rừng xanh.
Năm 1966, William Lyons giữ chức Giám đốc
Điều hành kiêm Chủ tịch và Tổng Giám đốc.
Ngày 11/07/1966, Jaguar Cars Ltd. tuyên bố
hợp nhất với British Motor Corporation Ltd. Chỉ 2
năm sau đó, sự sát nhập của Jaguar với Leylang
biến nhà sản xuất xe hơi này trở thành tập đoàn
sản xuất xe hơi lớn nhất nước Anh.
Năm 1972, Lyons nghỉ hưu, khiến cho cả một
Biểu tượng của Jaguar Cars
Báo đốm Jaguar
thời gian dài sau đó hãng gặp khá nhiều sóng gió với những chiến lược
không rõ ràng. Mãi đến tháng 04/1980, “vị cứu tinh” của Jaguar mới xuất
hiện, đó là John Egan – người được coi là đã hồi sinh Jaguar. Vị giám đốc 40
tuổi này thực sự đã đem lại hơi thở mới cho hãng sản xuất xe hơi Jaguar. Bởi
vậy, năm 1985, việc Jaguar ổn định và phát triển trở lại không hề khiến
ngành công nghiệp xe hơi ngạc nhiên.
Cuối năm 1989 đầu năm 1990, Ford mua lại Jaguar và đến năm 1999, hãng
trở thành một trong những nhãn hiệu xe độc lập của Ford Motors, giống như
Aston Martin và Volvo.
Trong suốt 84 năm lịch sử nghiên cứu và chế tạo, Jaguar đã cống hiến cho
ngành sản xuất xe hơi hàng loạt mẫu xe cũng như các sản phẩm khác nhau.
Đến nay, Jaguar vẫn luôn tự hào với triết lý chế tạo những chiếc xe đẹp nhất,
nhanh nhất trên cơ sở kết hợp giữa trí thông minh công nghệ với sự sang
trọng đương đại.
"Chiến binh" Ural ra đời như thế nào?
Ngay từ thời chiến tranh thế giới thứ nhất, quân đội các nước châu Âu đã
dùng đến môtô. Khi đó, môtô không phải chỉ là một phương tiện giao thông,
mà còn là một loại xe tác chiến. Trong thời gian giữa hai cuộc thế chiến, kỹ
thuật môtô quân sự được tiếp tục hoàn thiện ở Anh, Mỹ, Pháp. Thế nhưng,
vượt trội hơn cả trong lĩnh vực này là nước Đức. Đến năm 1939, trong trang
bị của quân đội Đế chế Đức đã có những chiếc môtô mạnh mẽ và chắc chắn
mang nhãn hiệu BMW, DKW, Zundapp. Môtô có tính năng chạy mọi địa hình
không tồi và trên thùng xe thường có đặt khẩu cối cá nhân hoặc súng trung
liên.
Ở Liên xô, trước chiến tranh thế giới
thứ hai, ngành chế tạo môtô không
được quan tâm nhiều như ngành ôtô.
Môtô được xuất xưởng rải rác từ
những cơ sở ở Ijevsk, Taganrora,
ngoại ô Podolsk và Serpukhov, với số
lượng khá khiêm tốn: chỉ khoảng 6
nghìn chiếc một năm. Môtô Xô-viết tiền
chiến đôi khi không được bền. Tính
chất đó khiến chúng ít phù hợp với
công tác quân sự. Ban lãnh đạo đất
nước đã sớm nhận ra vấn đề này.
Vào cuối năm 1930, Hội đồng Dân ủy
Quốc phòng Liên Xô đã có cuộc họp bí mật, liên quan đến việc thành lập đội
quân môtô hạng nặng chuyên dụng, quyết định lấy chiếc môtô Đức BMW–
R71 làm mẫu. Để phanh phui những bí quyết kết cấu bên trong của loại xe
này, đã có 5 chiếc môtô được mua thông qua nước thứ ba. Và các kỹ sư, cán
bộ kỹ thuật ưu tú nhất của ngành công nghiệp ôtô Liên Xô đã khẩn trương
nghiên cứu chúng một cách kỹ lưỡng. Kết quả là, trong một thời gian khá
ngắn ngủi, Liên Xô đã có thể chế ra loại xe giống như chiếc BMW–R71.
Tuy nhiên, xe môtô Xô-viết không phải là
bản sao y nguyên của xe Đức BMW. Chẳng
hạn, khung và hệ thống treo đàn hồi đã
được cải tiến một cách nghiêm túc, trở nên
linh hoạt hơn của xe Đức. Trên thực tế,
động cơ bốn kỳ hai xilanh nằm ngang đã
được chế tạo mới. Với dung tích 750cc và
công suất 22 mã lực, nó được dự trù dùng
được loại xăng có chất lượng thấp hơn động
cơ của xe Đức, và thêm nữa, ít gây tiếng ồn
hơn.
Đầu năm 1941, những chiếc xe môtô hạng nặng M-72 đã được trình ra với
các nhà quân sự, xe được chấm điểm “ưu” để đưa vào sản xuất hàng loạt
BMW-R71 của quân Đức trong thế
chiến II
URAL M -72
ngay lập tức tại một số công xưởng. Quân đội đã nhận được một phương tiện
giao thông mới, đa năng và khá bền chắc. Cũng như người anh em Đức của
nó, M-72 là phương án xe môtô thuyền, có thể trang bị súng cối cá nhân.
Tháng 10 năm 1941, khi thủ đô Nga nằm trong tình thế bị bao vây, xưởng
môtô Matxcơva được sơ tán về Ural, thành phố Irbit. Đơn sơ, thiếu thốn là
tình cảnh tại cơ sở thứ nhất chuyên sản xuất môtô hạng nặng của Liên xô.
Nhưng chỉ đến tháng 2 năm 1942, xưởng môtô Irbit đã cho đời ra loạt sản
phẩm đầu tiên. Tính chung, những năm chiến tranh, chỉ riêng từ Irbit đã cung
cấp cho quân đội 9800 chiếc xe. Ngoài ra, các môtô M-72 còn được sản xuất
tại Tiumen và thành phố Gorki (nay là Nijni Novgorod).
Trung đoàn môtô của Hồng quân Xô-viết
Những chiếc Ural M-72 được sử dụng rộng rãi phục vụ các chiến sĩ trinh sát,
bộ binh, cơ giới, xe tăng, liên lạc, các đơn vị sửa chữa máy móc quân dụng.
Thậm chí các chiến sĩ pháo binh còn dùng nó để chuyên chở những khẩu đại
bác hạng nhẹ. Các chiến sĩ mặt trận đánh giá xứng đáng độ bền vững và tính
dễ sử dụng, cũng như chất lượng, tốc độ của nó. Với một người lái và hai
hành khách, Ural M-72 ba bánh có trọng tải hơn một tấn rưỡi, nhưng công
suất vẫn đủ mạnh để đẩy nó chạy với tốc độ tối đa đến 85km/giờ. Môtô đơn
thì nhẹ hơn và chạy nhanh hơn, đến 105km/giờ, nhưng những chiếc như thế
ít được làm ra.
Từ sau khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ
hai, loại hình xe môtô nhiều cống hiến này
tiếp tục được xuất xưởng cho đến năm
1956. Còn mẫu xe cải tiến, thì ra đời năm
1960. Khung và hệ thống treo đàn hồi của
M-72 được dùng để chế ra các xe môtô
Irbit mới, dân dụng cũng như quân dụng.
Từ năm 1953, những chiếc xe môtô hai
bánh và ba bánh từ Ural được đem xuất
khẩu ra nước ngoài. Chúng trở nên nổi
tiếng không chỉ ở các nước Đông Âu mà cả
ở Việt Nam với tên gọi "Xít-đờ-ca". Xe môtô
Nga hạng nặng được biết đến ở Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Đức, Hà
Lan, Chilê, Columbia, Argentina. Xưởng môtô Irbit là một trong số không
nhiều xí nghiệp chế tạo máy của Nga, có sản phẩm được cấp chứng chỉ ở Mỹ.
Thế hệ "Gear-Up"
Ngày nay, xí nghiệp Irbit còn có loại môtô thuyền quân dụng “Gear-Up”. Đây
vốn là loại hình xe dân dụng hai chỗ, được trang bị động cơ công suất 32 mã
lực, dẫn động bánh sau và bánh thuyền xe, tay đòn khung treo phía trước.
Trên xe môtô này có thể đặt súng cối hay tên lửa chống tăng, và nó trở
thành cỗ xe nhà binh khá là “hầm hố”: chạy nhanh, xoay chuyển nhẹ nhàng
và thêm nữa, cũng chắc chắn, dễ sử dụng khi vận hành, y như các tiền bối
của nó thời chiến tranh thế giới thứ hai.
Ai là người sáng lập ra huyền thoại Bugatti?
Người được mệnh danh là "Nghệ nhân Chế tạo Xe hơi"
Người sáng lập Bugatti huyền thoại không phải ai khác chính là Ettore
Bugatti, sinh ngày 15 tháng 9 năm 1881 tại Milan, Ý, trong một gia đình
nghệ sĩ mà tên tuổi của người cha đã vượt qua những danh giới địa lý của
nước Ý, nhà điêu khắc Carlo Buggatti. Sau khi tốt nghiệp Trung học ông theo
học tại Viện hàn lâm Nghệ thuật (Milan), nhưng sức cuốn hút của nghệ thuật
cũng không giữ chân ông được bao lâu. Ông rời Viện Hàn Lâm để theo học
nghề tại xưởng sản xuất xe đạp Prinetti & Stucchi. Năm 17 tuổi ông đã chế
tạo những chiếc xe 3 bánh gắn động cơ, vào những năm cuối của thế kỷ 18
ông tham dự một giải đua xe với chiếc xe đầu tiên của ông.
Năm 1901 tại triển lãm quốc tế Milan, ông giới
thiệu chiếc xe tự tạo với sự giúp đỡ của anh em
nhà Gulinelli và đã giành được giải thưởng do
Câu Lạc Bộ Ô tô Pháp trao tặng. Do chưa đến
tuổi hợp pháp để đứng tên trong các hợp đồng,
thân phụ ông đã phải đứng tên trong các hợp
đồng làm việc cho Dietrich. Đáng tiếc là Dietrich
không thể đáp ứng niềm đam mê nghiên cứu
và chế tạo xe đua của Ettore. Ông nhanh chóng chấm dứt hợp đồng và
chuyển sang làm việc cho Emil Mathis, tại đây ông chế tạo chiếc xe hơi với
động cơ 4 xi lanh những vẫn không quên tiếp tục niềm đam mê chế tạo xe
đua của mình.
Sau gần mười năm làm việc cho nhiều hãng sản xuất xe hơi, Ettore Bugatti
thành lập hãng riêng của mình tại Molsheim, gần Strasbourg vào năm 1909.
Ông đã thuyết phục được một ngân hàng cho vay tiền để chế tạo 10 chiếc xe
hơi và 5 động cơ máy bay.
Ông khởi nghiệp bằng việc chế tạo động cơ
1327cc, 4 xi lanh mang số hiệu Type 13. Một
trong những thành công của ông là mẫu "Bébé"
do Peugeot sản xuất trên thiết kế của ông.
Trước thời chiến, ông cũng đã chế tạo 4 mẫu
động cơ 1368cc, 8 van và 5027cc, 16 van. Năm
1913 ông chế tạo động cơ 2906cc, 8 xi lanh
thẳng hàng. Năm 1921, sau chiến thắng lừng
lẫy tại cuộc đua Grand Prix Brescia với 4 thứ hạng cao nhất đều thuộc về
Bugatti, tất cả các động cơ 16 van được sản xuất sau này đều mang tên
Brescia để kỷ niệm chiến thắng này.
Vào năm 1924, Bugatti giới thiệu mẫu xe đua Model 35 với động cơ 2 lít 8 xi
lanh và đây cũng là chiếc xe trang bị lazăng đúc đầu tiên . Với hơn 2000
chiến thắng chiếc Model 35 trở thành chiếc xe đua thành công nhất mọi thời
đại.
Năm 1926, Bugatti quyết định biến giấc mơ sản
xuất một chiếc xe hơi sang trọng tột bậc trở
thành hiện thực với mẫu xe Royales động cơ 8
máy, 12762cc, công suất 300 mã lực! Oái oăm
thay, chiếc xe huyền thoại này ra đời không
đúng lúc: ngay trước thời điểm thế giới bước
vào cuộc Đại suy thoái. Chỉ có 3 chiếc xe đắt
nhất trong lịch sử xe hơi thế giới là tìm được
chủ nhân và chính chiếc xe huyền thoại này đã làm cho công ty của Bugatti
khánh kiệt.
Trong giai đoạn Đai suy thoái, măy mắn thay, Bugatti giành được hợp đồng
xây dựng một loại tàu siêu tốc cho chính phủ Pháp, với những kinh nghiệm
tích luỹ lâu năm ông không những đã làm hài lòng chính phủ mà còn giúp
công ty của mình vượt qua cơn sóng gió.
Ettore Bugatti cũng thiết kế thành công một chiếc
ô tô chạy trên đường ray, chiếc Autorail. Ông còn
thử sức sang cả lĩnh vực máy bay, song không
thành công, Jean Bugatti, con trai ông tử nạn ngày
11/08/1939 khi đang lái thử chiếc xe đua Type 57
gần nhà máy Molsheim. Kể từ đó, xui xẻo bắt đầu
ập đến. Thế chiến II đã tàn phá nhà máy ở
Molsheim. Trong thời kỳ chiến tranh, Bugatti cũng
xây dựng một nhà máy mới ở Levallois, Paris.
Đến khi Thế chiến II kết thúc thì Bugatti lại lâm vào cảnh túng quẫn do không
còn khả năng khôi phục lại sản xuất nhà máy Molsheim và vào ngày 21 tháng
8 năm 1947, ông qua đời tại Quân Y viện Paris do nhiễm bệnh phổi.
Mặc dù chỉ có 7900 chiếc xe được sản xuất trong giai
đoạn Bugatti điều hành công ty, nhưng vẫn có rất
nhiều chiếc xe trong đó vẫn còn cho đến ngày nay-
một minh chứng cho tài năng cũng như cống hiến
của Bugatti cho lịch sử phát triển ô tô thế giới. Với
những đóng góp to lớn của mình cho ngành công
nghiệp xe hơi thế giới, Ettore Bugatti thật xứng đáng
nhận danh hiệu "Nghệ nhân Chế tạo Xe hơi" - Automobile Artist.
Thunderbird ra đời như thế nào?
Trong nửa thế kỷ tồn tại và phát triển, Thunderbird (T-bird) được coi như một
trong những chiếc xe biểu tượng cho ngành công nghiệp ôtô Mỹ. Nó cũng là
yếu tố giúp Ford Motor Company tạo dựng và duy trì danh tiếng hàng đầu tại
nước Mỹ.
Sự ra đời của T-bird năm 1954
Khoảng thời gian Thế chiến II diễn ra, không hề có một sự sáng tạo nào ở
các công ty ôtô. Đến cuối thập kỷ 40, nhu cầu về xe hơi bùng nổ và một
trong những dòng xe được ưa chuộng nhất chính là những chiếc ôtô thể thao.
Trở về từ châu Âu, những người lính Mỹ mang theo các mẫu xe thể thao
danh tiếng của Italy, Đức, Pháp và Anh. Cùng lúc đó, môn đua ôtô trở nên
phổ biến với các trường đua được xây mới, các cuộc đua được tổ chức khắp
nơi.
Cộng thêm tác động của một nền
kinh tế phát triển mạnh, không có
gì ngạc nhiên khi chiếc
Thunderbird xuất hiện và lập tức
gặt hái thành công dễ dàng tại
Mỹ. Chiếc xe lần đầu tiên được
trình làng vào năm 1954 tại Triển
lãm ôtô Detroit. Đó là một chiếc
roadster (xe hai chỗ mui trần)
mang tiện nghi hiện đại, sự tiện
lợi cũng như sức mạnh và khả
năng điều khiển dễ dàng. Chỉ
trong 10 ngày đầu tiên, Ford đã
bán được 3.500 xe trong khi mục
tiêu cả năm chỉ là 10.000 xe.
Thunderbird thực sự là câu trả lời mà Ford dành cho chiếc roadster Corvette
của Chevrolet. Nhưng trong khi chiếc Corvette chỉ trung thành với một kiểu
dáng duy nhất thì Thunderbird đã xuất hiện với rất nhiều phiên bản khác
nhau, từ những chiếc coupe hardtop (hardtop là thuật ngữ chỉ xe mui cứng
không có thanh chống ở giữa) và xe 4 cửa. Dễ hiểu vì sao Thunderbird lại
được yêu thích. Nó kết hợp được những phẩm chất của một chiếc xe thể thao
sang trọng với những đặc điểm mà người Mỹ rất chuộng. Chỉ có hai chỗ ngồi
nhưng T-bird năm 1972 là chiếc xe đầu tiên dài tới hơn 5 m, trong khi mẫu
Thunderbird 2005 cũng có chiều dài hơn 4,7 m. Trong bất cứ giai đoạn nào,
Thunderbird cũng luôn được trang bị những tiện nghi hàng đầu và động cơ
mạnh mẽ nhất, ngay cả vào thời kỳ khủng hoảng dầu lửa thập kỷ 70. Có thể
chia 50 năm của Thunderbird ra làm 4 giai đoạn, 1955-1963, 1964-1975,
1976-1997, 1998-2004.
Một chiếc T-bird 1954
Ngay từ những chiếc xe đầu tiên, nhà sản xuất đã lựa chọn lắp cho nó một
động cơ V8. Từ 1958 đến 1960, xe Thunderbird gắn động cơ dung tích 5,8 lít,
công suất 300 mã lực. Tuy vậy, khách hàng có thể lựa chọn chiếc xe với động
cơ tới 7 lít và sức mạnh tương đương 350 mã lực. Năm 1961, lần đầu tiên
Thunderbird có những cải tiến đáng kể về dáng vẻ bên ngoài, bỏ đi những
vây nhọn phía trên hai đèn đuôi hình tròn, đèn pha vuông, và nhất là có thêm
một phiên bản mui xếp (convertible). Từ năm 1961 đến 1963, trang bị tiêu
chuẩn cho xe Thunderbird là động cơ V8 dung tích 6,4 lít, công suất 300-340
mã lực.
Chiếc xe T-bird Turbo
Mẫu xe sản xuất năm 1964 được biết đến với
biệt danh “Jet Bird”. Khoảng cách trục được
kéo dài tới 2.870 mm, khiến chiếc xe dài tới
5.207 mm. Điểm nổi bật của chiếc xe là mui
ngắn hơn, trong khi nắp ca-pô và phần thùng
sau được kéo dài, toàn bộ phần đuôi xe được
thiết kế lại. Năm 1965, lần đầu tiên phanh đĩa
trở thành trang bị tiêu chuẩn cho hai bánh
trước.
Mỗi năm, đội ngũ kỹ sư thiết kế của Ford đều thực hiện những công việc làm
mới chiếc xe của họ, khi thì ở nội thất, khi thì vuốt lại các đường nét bên
ngoài. Tuy nhiên, mẫu xe năm 1967 mới thực sự có nhiều điểm khác với
những đời trước. Khung gầm được thiết kế hoàn toàn mới, phần mặt trước xe
đơn giản hơn, đèn pha giấu bên dưới nắp ca-pô, chỉ nhô lên khi người điều
khiển xe bấm nút khởi động. Vì thế cho đến năm 1971, mọi cải tiến chỉ là ở
vài chi tiết tại mặt trước và sau xe.
T-bird Super Coupe sản xuất năm 1994
Cho đến năm 1972, Thunderbird mở đầu cho
sự xuất hiện của một thế hệ những xe sang
trọng. Chỉ có duy nhất phiên bản hardtop 2
cửa, chiếc xe gây chú ý với kiểu dáng mạnh
mẽ và nội thất sang trọng hơn hẳn so với
quan niệm trước đây về một chiếc
Thunderbird. Động cơ của xe nặng 2.085 kg
này có dung tích 7 lít. Năm 1973,
Thunderbird được lắp đèn pha kép ở mỗi
bên.
Chiếc xe năm 1976 có thể coi là chiếc Thunderbird lớn nhất và sang trọng
nhất. Nhưng dường như điều đó không mang lại nhiều hiệu quả về mặt kinh
tế nên ở phiên bản ra sau đó, nhà sản xuất đã thu hẹp các kích thước của xe
lại, dù toàn bộ tiện nghi không thay đổi, nhờ thế giảm được 450 kg trọng
lượng. Thân xe Thunderbird 1980 được chuyển thành dạng unibody (gồm các
T-bird Turbo
Coupe T-bird turbo
tấm thép gắn với nhau), nhẹ hơn 360 kg so với xe trước đó, và cũng ngắn
hơn 431 mm.
Năm 1983 là một trong những năm thành công của Ford Thunderbird. Tháng
2 năm đó, chiếc coupe Thunderbird Turbo được trình làng và gây sự chú ý tại
bất kỳ nơi đâu nó xuất hiện. Chiếc xe chỉ được trang bị một động cơ
turbocharged 2,3 lít, hộp số sàn 5 cấp. Từ đầu thập kỷ 80, phần thùng sau xe
dần được thu gọn lại nhưng kiểu nắp ca-pô vươn dài về phía trước đầy ngạo
nghễ vẫn là kiểu cách mà người Mỹ ưa thích. Phiên bản 1989 gây nên một
cơn sốt. Chiếc xe Super Coupe này có trục cơ sở dài hơn, bề ngang cũng rộng
hơn, hệ thống treo độc lập phía sau, phanh đĩa ở cả 4 bánh với động cơ
supercharged V6.
T-bird 2002 đoạt giải của tạp chí Motor Trend
Bước sang thập kỷ 90, lượng tiêu thụ xe
Thunderbird chững dần lại và người ta bắt
đầu xì xầm về việc Ford chuẩn bị thôi sản
xuất chiếc roadster này sau 40 năm. Tin tức
này càng được khẳng định vào năm 1998, khi
Ford không còn trưng bày Thunderbird tại các
showroom. Giới chuyên môn còn khẳng định
sang thiên niên kỷ mới, sẽ có một mẫu xe
hoàn toàn mới để thay thế.
Tuy nhiên, phiên bản của năm 2002 một lần nữa giúp Thunderbird giành
danh hiệu Xe của năm do tạp chí Motor Trend trao. Thành công này có thể
dự báo được khi chiếc Thunderbird 2001 (xe concept) đã thu hút nhiều sự
quan tâm khi được Ford giới thiệu tại khắp các triển lãm ôtô lớn trên thế giới.
Dẫu vậy, đánh giá của các nhà chuyên môn không phải bao giờ cũng đúng
với những nhu cầu của khách hàng. Có số lượng bán ra không nhỏ nhưng
Thunderbird 2002 không đạt được mục tiêu mà hãng sản xuất đề ra. Ford hy
vọng phiên bản 2005, tung ra vào nửa sau của năm 2006 thực sự là một
chiếc xe để chúc mừng sinh nhật 50 tuổi của Thunderbird.
T-bird 2002
Cadillac ra đời như thế nào?
Cái tên Cadillac
Đầu thế kỷ 20 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng
của nền công nghiệp xe hơi thế giới khi Henry Leland
sáng lập ra một công ty chế tạo xe hơi và đặt tên là
Cadillac - theo tên nhà sáng lập ra Detrioit huyền
thoại Antoine de la Mothe Cadillac. Để chào mừng
sự kiện này, Herald đã thiết kế biểu trưng của công ty
dựa trên huy hiệu của dòng họ Cadillac danh tiếng.
Chiếc xe đầu tiên của công ty – Model A Runabout là
chiếc xe đầu tiên vinh dự được mang biểu trưng này.
Chinh phục thế giới
Năm 1908, tức là chỉ vài năm sau khi sản xuất được động cơ 4 xi lanh đầu
tiên, Cadillac lại khiến cả nền công nghiệp xe hơi sửng sốt khi trình diễn
những bộ phận xe hơi dễ dàng lắp đặt ở nhiều vị trí khác nhau. Đây chính là
sự kiến đặt nền móng cho sản xuất xe hơi trên quy mô lớn trên thế giới, đồng
thời giúp Cadillac giành được danh hiệu cao quý Dewar Trophy của CLB Xe
hơi Hoàng Gia - Royal Automobile Club (Anh). Cũng từ thời điểm này, biểu
trưng của công ty tự hào được gắn thêm slogan “Tiêu chuẩn của Thế giới”.
Tuy nhiên, Cadillac dường như đã cố tình đi ngược lại trật tự của công nghiệp
xe hơi toàn cầu khi đặt ra mục tiêu “Chất lượng phải đi trước Số lượng” và
dồn toàn bộ nguồn lực vào thiết kế một chiếc xe tuyệt vời nhất có thể.
Năm 1910, Model Thirty của Cadillac là chiếc xe đầu tiên giã từ hệ thống khởi
động bằng tay nhờ có hệ thống khởi động điện và bộ phận đánh lửa. Đây
được coi là một phát minh tuyệt vời bởi không ít lái xe đã bị gãy tay hoặc vỡ
xương hàm bởi hệ thống khởi động bằng tay. Một lần nữa danh hiệu Dewar
Trophy lại được trao cho Detroit, và Cadillac trở thành nhà chế tạo xe hơi
duy nhất đạt được danh hiệu cao quý này 2 lần.
Đến năm 1915, Cadillac chuyển hướng
sang động cơ V-8 làm mát bằng nước,
mặc dù lúc bấy giờ động cơ 4 xi lanh vẫn
được ưa chuộng. Trong thời kỳ Thế chiến
lần thứ nhất (1916-1918), hệ thống làm
mát nhiệt tĩnh và hệ thống đèn pha rất
hiệu quả khi sử dụng ban đêm đã khiến
Cadillac trở thành lựa chọn số 1 đối với
quân đội Hoa Kỳ.
Thập niên 20 càng khẳng định vị thế và sự tín nhiệm của giới xe hơi đối với
Cadillac khi Cadillac giới thiệu chiếc cần gạt nước và kính chiếu hậu, đồng thời
thoả mãn những khách hàng khó tính nhất bằng cách thay đổi thiết kế thân
xe phong cách hơn và sang trọng hơn.
Biểu trưng hiện nay
của Cadillac
Một mẫu xe Cadillac thập niên 30
Năm 1927, lần đầu tiên mối liên hệ giữa hình dáng và chức năng của một
chiếc xe được một nhà chế tạo xe hơi thực sự để mắt đến. Chiếc mui trần
LaSalle trở thành chiếc xe đầu tiên được tạo dáng bởi một nhà thiết kế, chứ
không phải bởi một kỹ sư ôtô như trước đây.
Cuối thập niên 20, Cadillac đồng nghĩa với sự tạo dáng đẹp mắt và sang
trọng. Cadillac đã khởi động thập niên 30 bằng việc ra mắt động cơ V-16
trang bị cho xe du lịch, cùng với nó là những mẫu biểu trưng khách nhau cho
động cơ V-8, V-12 và V-16. Đến năm 1936, Cadillac đã sở hữu khoảng 68
mẫu thân xe khác nhau. Năm 1938, Cadillac đã giành thêm một cái “nhất”
nữa trong lịch sử phát triển của mình bằng cách đưa từ “sunroof” (cửa sổ
trời) vào từ điển Hoa Kỳ.
Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 đã đem lại cho
Cadillac không ít cơ hội được thể hiện tài năng và
tiềm lực. Với đông cơ V-8 được dùng cho xe tăng
M-5 và M-8 Howitzer, Cadillac tự hào giương cao
khẩu hiệu “Nổi tiếng trong Thời bình –
Khẳng định sự vượt trội trong Thời chiến”.
Năm 1950 không chỉ đánh dấu doanh số 100.000
xe/ năm (gần gấp đôi so với trước Thế chiến II)
mà còn là năm gặt hái của Cadillac trên đường
đua 24 Hours of Le Mans - một trong những
đường đua khốc liệt nhất trên thế giới - với các vị
trí xếp hạng thứ 3, thứ 10 và 11.
Thập kỷ 60 tiếp tục ghi dấu những thành tựu công nghệ của Cadillac với hệ
thống phanh tự điều chỉnh, hệ thống điều hòa nhiệt độ, thông khí và làm
nóng nhiệt tĩnh, tiếp theo đó là sự ra đời của bộ đèn pha bật tắt tự động, dây
an toàn cho ghế trước, tấm sưởi điện cho các ghế ngồi và hệ thống âm thanh
stereo.
Cadillac chào mừng thập niên 70 với dây chuyền sản xuất xe du lịch lớn nhất
thế giới – chiếc Eldorado 8.2L - 400hp. Từ năm 1975-1978, Cadillac tiếp tục
dẫn đầu ngành công nghiệp xe hơi với những cải tiến không ngừng: hệ
thống túi khí và thiết bị trung hòa khí thải tiên tiến.
Bằng việc thiết kế lại những mẫu xe cổ điển của thập niên 30 và 40, ngay từ
đầu những năm 1980, Cadillac đã dấy lên phong trào “hoài cổ” có ảnh hưởng
lớn đến toàn bộ ngành công nghiệp xe hơi thế giới. Không ngủ quên với
những thành công liên tiếp, Cadillac tiếp tục đầu tư vào công nghệ và trở
thành nhà chế tạo xe hơi đầu tiên sử dụng bộ vi xử lý tích hợp để kiểm soát
hệ thống đánh lửa, nạp nhiên liệu và hoạt động tổng thể của cả chiếc xe.
Năm 1984, Hệ thống Phân phối Chìa khóa vàng đã đặt ra những tiêu chuẩn
mới cho việc bán xe, bao gồm việc tìm hiểu thông số kỹ thuật và tính năng
Cadillac Sixty Special
1948
của xe và chạy thử xe. Chính nhờ những nỗ lực này mà chỉ vài năm sau đó,
Cadillac đã được J.D.Power bình chọn là nhà sản xuất xe hơi hàng đầu về việc
thỏa mãn khách hàng mua xe.
Năm 1992, chiếc Cadillac Seville vinh dự đạt
danh hiệu “Chiếc xe của Năm” nhờ những
tính năng tuyệt hảo như hệ thống kiểm soát
độ bám đường của xe, hệ thống chống bó
cứng phanh và hệ thống treo cảm biến tốc
độ.
Năm 2000-2001, Cadillac khẳng định lại
đẳng cấp trên đường đua mà hãng đã lãng
quên, nhờ việc tập trung vào những công
nghệ tiên tiến nhất nhằm nâng cao khả
năng vận hành của xe. Cadillac trở lại đường đua Presidental Inaugural
Parade vào năm 2001.
Đến nay, trải qua hơn 100 năm không ngừng nỗ lực và phát triển, Cadillac
vẫn luôn tự hào với những danh hiệu “đầu tiên” và “số một” đã làm rạng
danh dòng họ Cadillac mà nó mang tên.
Pebble Beach Concours
d'Elegance
Mercedes-Benz nổi tiếng với những dòng xe nào?
A-Class
Chiếc Mercedes-Benz A-Class thuộc dòng
supermini thường được biết đến với “nick-name”
Baby Benz. Xuất hiện lần đầu vào năm 1997,
sau 7 năm có mặt trên thị trường, số xe A-Class
bán ra là 1,1 triệu chiếc. Thế hệ thứ 2 của A-
Class được giới thiệu vào mùa thu 2004 được
trang bị thêm nhiều công nghệ mới như hộp số
tự động vô cấp Autotronic, hệ thống ổn định
điện tử ESP và hệ thống treo mới làm tăng độ ổn định cho xe, đồng thời khắc
phục khả năng bị lật xe khi chạy zíc zắc. Xe được giới thiệu với hai phiên bản
thân xe 3 cửa, 5 cửa và 7 loại động cơ để lựa chọn (3 động cơ diesel và 4
xăng).
C-Class
Lần đầu tiên xuất xưởng vào tháng 6/1993, dòng C-Class được coi là một
trong những chiếc xe Mercedes-Benz có giá “dễ chịu” nhất. Phiên bản thứ hai
của dòng xe này được giới thiệu ra thị trường vào tháng 7/ 2000 (hiện đã sản
xuất được trên 1,5 triệu chiếc) và người tiêu dùng trên toàn thế giới đang
đón chờ phiên bản thứ 3 của C-Class - được thông báo là sẽ xuất hiện vào
năm 2007 này. Những yếu tố làm nên thành công của chiếc xe là công nghệ
cao kết hợp với nhu cầu sử dụng đa dạng. Chiếc xe mới của năm 2005 được
trang bị thêm một số công nghệ mới như sơn chống trầy xước sử dụng công
nghệ Nano, đèn Bi-xenon với hướng chiếu sáng thay đổi theo góc lái, hệ
thống truyền động 4 bánh 4Matic…
E-Class
E trong E-Class là từ viết tắt của “Einspritzung”,
một từ tiếng Đức có nghĩa là “hệ thống phun
nhiên liệu”. Hệ thống này đã từng được coi là
một trong những thành tựu mới của ngành công
nghiệp xe hơi thập niên 50. Mercedes-Benz E-
Class là một chiếc xe hạng sang hiện được giới
thiệu với hai phiên bản sedan 4 cửa và estate 5
cửa được trang bị động cơ xăng và diesel (tùy
phiên bản), động cơ 4 xi-lanh thẳng hàng cho
đến V8, 3 kiểu hộp số (số tay 6 cấp, tự động 5 cấp và tự động 7 cấp 7G-
Tronic). Một số công nghệ nổi bật trên chiếc E-class là hệ thống treo khí nén
Airmatic DC (tuỳ chọn), phanh điện thuỷ lực SBC, Cruiser Control Distronic,
điều hoà 4 vùng Thermotronic… E-Class cũng là dòng xe bán chạy nhất của
Mercedes-Benz trên toàn thế giới nhờ sự đa dụng của nó: nếu ở một số quốc
gia dòng E-Class được coi là những chiếc xe sang trọng thì ở một số nơi khác,
nó lại được một số công ty taxi khai thác (Đức, Bồ Đào Nha, Singapore).
"Baby Benz"
E-Class
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy
sổ tay oto xe máy

More Related Content

Featured

Product Design Trends in 2024 | Teenage Engineerings
Product Design Trends in 2024 | Teenage EngineeringsProduct Design Trends in 2024 | Teenage Engineerings
Product Design Trends in 2024 | Teenage EngineeringsPixeldarts
 
How Race, Age and Gender Shape Attitudes Towards Mental Health
How Race, Age and Gender Shape Attitudes Towards Mental HealthHow Race, Age and Gender Shape Attitudes Towards Mental Health
How Race, Age and Gender Shape Attitudes Towards Mental HealthThinkNow
 
AI Trends in Creative Operations 2024 by Artwork Flow.pdf
AI Trends in Creative Operations 2024 by Artwork Flow.pdfAI Trends in Creative Operations 2024 by Artwork Flow.pdf
AI Trends in Creative Operations 2024 by Artwork Flow.pdfmarketingartwork
 
PEPSICO Presentation to CAGNY Conference Feb 2024
PEPSICO Presentation to CAGNY Conference Feb 2024PEPSICO Presentation to CAGNY Conference Feb 2024
PEPSICO Presentation to CAGNY Conference Feb 2024Neil Kimberley
 
Content Methodology: A Best Practices Report (Webinar)
Content Methodology: A Best Practices Report (Webinar)Content Methodology: A Best Practices Report (Webinar)
Content Methodology: A Best Practices Report (Webinar)contently
 
How to Prepare For a Successful Job Search for 2024
How to Prepare For a Successful Job Search for 2024How to Prepare For a Successful Job Search for 2024
How to Prepare For a Successful Job Search for 2024Albert Qian
 
Social Media Marketing Trends 2024 // The Global Indie Insights
Social Media Marketing Trends 2024 // The Global Indie InsightsSocial Media Marketing Trends 2024 // The Global Indie Insights
Social Media Marketing Trends 2024 // The Global Indie InsightsKurio // The Social Media Age(ncy)
 
Trends In Paid Search: Navigating The Digital Landscape In 2024
Trends In Paid Search: Navigating The Digital Landscape In 2024Trends In Paid Search: Navigating The Digital Landscape In 2024
Trends In Paid Search: Navigating The Digital Landscape In 2024Search Engine Journal
 
5 Public speaking tips from TED - Visualized summary
5 Public speaking tips from TED - Visualized summary5 Public speaking tips from TED - Visualized summary
5 Public speaking tips from TED - Visualized summarySpeakerHub
 
ChatGPT and the Future of Work - Clark Boyd
ChatGPT and the Future of Work - Clark Boyd ChatGPT and the Future of Work - Clark Boyd
ChatGPT and the Future of Work - Clark Boyd Clark Boyd
 
Getting into the tech field. what next
Getting into the tech field. what next Getting into the tech field. what next
Getting into the tech field. what next Tessa Mero
 
Google's Just Not That Into You: Understanding Core Updates & Search Intent
Google's Just Not That Into You: Understanding Core Updates & Search IntentGoogle's Just Not That Into You: Understanding Core Updates & Search Intent
Google's Just Not That Into You: Understanding Core Updates & Search IntentLily Ray
 
Time Management & Productivity - Best Practices
Time Management & Productivity -  Best PracticesTime Management & Productivity -  Best Practices
Time Management & Productivity - Best PracticesVit Horky
 
The six step guide to practical project management
The six step guide to practical project managementThe six step guide to practical project management
The six step guide to practical project managementMindGenius
 
Beginners Guide to TikTok for Search - Rachel Pearson - We are Tilt __ Bright...
Beginners Guide to TikTok for Search - Rachel Pearson - We are Tilt __ Bright...Beginners Guide to TikTok for Search - Rachel Pearson - We are Tilt __ Bright...
Beginners Guide to TikTok for Search - Rachel Pearson - We are Tilt __ Bright...RachelPearson36
 
Unlocking the Power of ChatGPT and AI in Testing - A Real-World Look, present...
Unlocking the Power of ChatGPT and AI in Testing - A Real-World Look, present...Unlocking the Power of ChatGPT and AI in Testing - A Real-World Look, present...
Unlocking the Power of ChatGPT and AI in Testing - A Real-World Look, present...Applitools
 
12 Ways to Increase Your Influence at Work
12 Ways to Increase Your Influence at Work12 Ways to Increase Your Influence at Work
12 Ways to Increase Your Influence at WorkGetSmarter
 

Featured (20)

Product Design Trends in 2024 | Teenage Engineerings
Product Design Trends in 2024 | Teenage EngineeringsProduct Design Trends in 2024 | Teenage Engineerings
Product Design Trends in 2024 | Teenage Engineerings
 
How Race, Age and Gender Shape Attitudes Towards Mental Health
How Race, Age and Gender Shape Attitudes Towards Mental HealthHow Race, Age and Gender Shape Attitudes Towards Mental Health
How Race, Age and Gender Shape Attitudes Towards Mental Health
 
AI Trends in Creative Operations 2024 by Artwork Flow.pdf
AI Trends in Creative Operations 2024 by Artwork Flow.pdfAI Trends in Creative Operations 2024 by Artwork Flow.pdf
AI Trends in Creative Operations 2024 by Artwork Flow.pdf
 
Skeleton Culture Code
Skeleton Culture CodeSkeleton Culture Code
Skeleton Culture Code
 
PEPSICO Presentation to CAGNY Conference Feb 2024
PEPSICO Presentation to CAGNY Conference Feb 2024PEPSICO Presentation to CAGNY Conference Feb 2024
PEPSICO Presentation to CAGNY Conference Feb 2024
 
Content Methodology: A Best Practices Report (Webinar)
Content Methodology: A Best Practices Report (Webinar)Content Methodology: A Best Practices Report (Webinar)
Content Methodology: A Best Practices Report (Webinar)
 
How to Prepare For a Successful Job Search for 2024
How to Prepare For a Successful Job Search for 2024How to Prepare For a Successful Job Search for 2024
How to Prepare For a Successful Job Search for 2024
 
Social Media Marketing Trends 2024 // The Global Indie Insights
Social Media Marketing Trends 2024 // The Global Indie InsightsSocial Media Marketing Trends 2024 // The Global Indie Insights
Social Media Marketing Trends 2024 // The Global Indie Insights
 
Trends In Paid Search: Navigating The Digital Landscape In 2024
Trends In Paid Search: Navigating The Digital Landscape In 2024Trends In Paid Search: Navigating The Digital Landscape In 2024
Trends In Paid Search: Navigating The Digital Landscape In 2024
 
5 Public speaking tips from TED - Visualized summary
5 Public speaking tips from TED - Visualized summary5 Public speaking tips from TED - Visualized summary
5 Public speaking tips from TED - Visualized summary
 
ChatGPT and the Future of Work - Clark Boyd
ChatGPT and the Future of Work - Clark Boyd ChatGPT and the Future of Work - Clark Boyd
ChatGPT and the Future of Work - Clark Boyd
 
Getting into the tech field. what next
Getting into the tech field. what next Getting into the tech field. what next
Getting into the tech field. what next
 
Google's Just Not That Into You: Understanding Core Updates & Search Intent
Google's Just Not That Into You: Understanding Core Updates & Search IntentGoogle's Just Not That Into You: Understanding Core Updates & Search Intent
Google's Just Not That Into You: Understanding Core Updates & Search Intent
 
How to have difficult conversations
How to have difficult conversations How to have difficult conversations
How to have difficult conversations
 
Introduction to Data Science
Introduction to Data ScienceIntroduction to Data Science
Introduction to Data Science
 
Time Management & Productivity - Best Practices
Time Management & Productivity -  Best PracticesTime Management & Productivity -  Best Practices
Time Management & Productivity - Best Practices
 
The six step guide to practical project management
The six step guide to practical project managementThe six step guide to practical project management
The six step guide to practical project management
 
Beginners Guide to TikTok for Search - Rachel Pearson - We are Tilt __ Bright...
Beginners Guide to TikTok for Search - Rachel Pearson - We are Tilt __ Bright...Beginners Guide to TikTok for Search - Rachel Pearson - We are Tilt __ Bright...
Beginners Guide to TikTok for Search - Rachel Pearson - We are Tilt __ Bright...
 
Unlocking the Power of ChatGPT and AI in Testing - A Real-World Look, present...
Unlocking the Power of ChatGPT and AI in Testing - A Real-World Look, present...Unlocking the Power of ChatGPT and AI in Testing - A Real-World Look, present...
Unlocking the Power of ChatGPT and AI in Testing - A Real-World Look, present...
 
12 Ways to Increase Your Influence at Work
12 Ways to Increase Your Influence at Work12 Ways to Increase Your Influence at Work
12 Ways to Increase Your Influence at Work
 

sổ tay oto xe máy

  • 1. Alfa Romeo ra đời như thế nào? Alfa Romeo là một công ty sản xuất xe hơi nổi tiếng của Italia, do Cavaliere Ugo Stella, một nhà quý tộc ở Milan liên kết với nhà sản xuất xe hơi Alexandre Darracq sáng lập vào năm 1907, lấy tên là "Darracq Italiana". Ban đầu, nhà máy sản xuất được đặt ở Naples nhưng sau đó, Stella đã dời xưởng về vùng ngoại ô Milan và đổi tên thành ALFA (Anonima Lombarda Fabbrica Automobili). Chiếc 1910 24HP do Giuseppe Merosi thiết kế là chiếc xe đầu tiên không còn mang nhãn hiệu Darracq. Sau đó Merosi cũng tiếp tục thiết kế nhiều mẫu xe ALFA mới được trang bị động cơ mạnh mẽ hơn (40-60hp). ALFA cũng tham gia vào các giải đua xe quốc tế tuy nhiên do ảnh hưởng của chiến tranh thế giới thứ nhất, ALFA đã phải ngưng sản xuất xe trong 3 năm. ALFA bắt đầu nằm dưới sự điều hành của Nicola Romeo từ năm 1916 và chuyển sang sản xuất vũ khí quân dụng hạng nặng cho quân đội Italia và các đồng minh của Italia. Trong suốt thời kỳ chiến tranh, ALFA đã sản xuất vũ khí và động cơ cho máy bay, máy phát điện và đầu máy xe lửa. Khi chiến tranh kết thúc, Nicola Romeo đã hoàn toàn tiếp quản ALFA và công ty tiếp tục sản xuất xe hơi trở lại. Năm 1920, ALFA đổi tên thành Alfa Romeo và mẫu xe đầu tiên ra mắt là chiếc Torpedo 20-30HP. Giuseppe Merosi vẫn là nhà thiết kế chính cho Alfa Romeo và công ty vẫn tiếp tục cho ra đời những mẫu xe hơi dân dụng và xe đua danh tiếng (trong đó có cả chiếc 40-60HP và RL Targa Florio). Năm 1923 Vittorio Jano bỏ Fiat đến đầu quân cho Alfa Romeo, thay thế vị trí thiết kế trưởng của Merosi, một phần là nhờ sự thuyết phục của tay đua trẻ tuổi Enzo Ferrari của đội Alfa Romeo. Chiếc xe đầu tiên do Jano thiết kế là chiếc P2 Grand Prix, chiếc xe giành giải vô địch thế giới năm 1925. Jano cũng đã phát triển hàng loạt những chiếc xe dân dụng, từ những chiếc xe có dung tích xi lanh lớn/nhỏ với động cơ I4, I6 hay I8 dựa trên động cơ P2. Năm 1928, sau khi
  • 2. hợp đồng vũ khí quốc phòng hết hiệu lực, Alfa Romeo gần như đứng bên bờ vực phá sản. Alfa Romeo bắt đầu nằm dưới sự kiểm soát của Chính phủ Italy vào năm 1933. Kể từ đó, Alfa Romeo còn nổi tiếng với những mẫu xe thiết kế dành riêng cho cảnh sát ("Panthers" Carabinieri, Giulia Super, hay 2600 Sprint GT…). Sau Thế chiến II, Alfa Romeo cố gắng khôi phục sản xuất từ đống đổ nát do chiến tranh gây ra. Những chiếc xe hơi sang trọng và những chiếc xe cỡ nhỏ bắt đầu được sản xuất hàng loạt ở các nhà máy của Alfa Romeo. Trên đường đua, các xe Alfa Romeo đã giành được rất nhiều chiến thắng vinh quang trong nhiều giải đấu, từ giải Formula 1, Prototypes, Touring đến giải Fast Touring. Tuy nhiên, đầu những năm 1970, Alfa lại một lần nữa gặp khó khăn về tài chính. Chính phủ Italia buộc phải bán Alfa Romeo cho Fiat, tập đoàn Alfa Lancia Spa ra đời, mở đầu cho kỷ nguyên của Alfa và Lancia. Cho đến nay, Alfa Romeo vẫn thuộc sở hữu của Fiat.
  • 3. Audi AG ra đời như thế nào? Hiếm nhà sản xuất xe hơi nào lại có lịch sử phát triển hào hùng hay sở hữu một bộ sưu tập những chiếc xe danh tiếng thế giới như Audi. Không chỉ đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu, phát triển công nghệ mới cho xe hơi, Audi còn xứng đáng là "bá chủ" trên các đường đua đường trường. Kỷ nguyên của Auto Union AG Năm 1932, Audi sát nhập với Horch, DKW và Wanderer thành lập nên Auto Union AG. Bắt đầu một kỷ nguyên mới của tập đoàn xe hơi hạng sang. Năm 1933, lần đầu tiên Auto Union AG tham gia German Automobile Exhibition. Audi đã đem đến triển lãm một bất ngờ lớn với một chiếc xe cỡ vừa dẫn động cầu trước. Chiếc xe concept này đã được phát triển và đến 1938, Audi 920 chính thức có mặt trên thị trường. Với thiết kế hiện đại, động cơ OHC 75hp mạnh mẽ, chiếc xe có thể đạt vận tốc tối đa 140km/h. Audi 920 thực sự trở thành niềm mơ ước của những người năng động, ưa mạo hiểm luôn khao khát có một chiếc xe nhỏ nhưng mạnh mẽ. Trong khi đó, DKW chủ yếu được biết đến là một trong những nhà sản xuất xe máy lớn nhất thế giới. Năm 1933, DKW ra mắt mẫu xe mới sử dụng 8 động cơ 175-600cc và năm 1934, chiếc RT 100 xuất hiện trên thị trường và nhanh chóng trở thành chiếc xe bán chạy nhất mọi thời đại. Vị thế của DKW càng được củng cố hơn với sự ra đời của 200 Class và NZ (1938). Ô tô cỡ nhỏ của DKW được sản xuất ở Berlin-Spandau và Zwickau. Các mẫu xe 4WD của DKW, bao gồm các mẫu F2, F4, F5, F7 và F8, được phân chia làm 2 hạng: hạng Reichsklasse (Rich class - động cơ 600cc 18hp) và Meisterklasse (Master class - động cơ 700cc 20hp). Ngoài ra, DKW còn giới thiệu mẫu xe mui xếp “Front Luxus”. Xe DKW Front vẫn tiếp tục dẫn đầu trong số các xe cỡ nhỏ bán chạy nhất ở Đức: Vào những năm 1930, 250.000 chiếc DKW Front đã được tiêu thụ ở Đức. Năm 1933, Horch giới thiệu hàng loạt động cơ V8 với dung tích xi lanh 3,0L, 3,5L và 3,8L (công suất cực đại 70-92hp). Năm 1935, Horch giới thiệu chiếc Logo của Audi Audi 920 - Một trong những mẫu xe kinh điển
  • 4. xe thể thao mui xếp Type 853 sử dụng động cơ I8. Năm 1937, Horch chiếm tới hơn 50% thị phần xe trên 4.0L. Từ trước khi sát nhập với Audi, Horch và DKW thành Auto Union AG, Wanderer đã sử dụng động cơ OHC do Giáo sư Porsche thiết kế. Wanderer lần lượt giới thiệu model W21 và W22 (1933), W40, W45 và W50 (1935). Động cơ Horch V8 dần được thay thế bằng động cơ I6. Auto Union ngày càng đạt được nhiều tiến bộ vượt bậc trong việc phát triển hộp số tự động và tìm kiếm vật liệu mới để sản xuất thân xe. Hơn nữa, nhận thấy việc sản xuất khung gầm bằng gỗ và nội thất bọc da quá tốn kém, Auto Union AG hợp tác với Dynamit AG (Troisdorf) để nghiên cứu, phát triển thân xe bằng plastic. Lần đầu tiên trong lịch sử ngành công nghiệp ô tô Đức người ta đã tiến hành một chương trình kiểm tra độ cứng của gỗ, thép tấm và plastic. Auto Union AG mở rộng khá nhanh trong giai đoạn 1933-1939 với doanh thu tăng từ 65 triệu lên 276 triệu (Reichsmark) và 23,000 nhân công. Sản lượng hàng năm của Auto Union cũng tăng vọt: Xe máy từ 12,000 xe/năm lên 59.000 xe/năm và ô tô từ 17.000 xe/năm lên 67.000xe/năm. So với năm 1932 (năm thành lập Auto Union), năm 1938, sản lượng của Horch tăng gấp đôi, Wanderer tăng gấp 5 lần còn DKW tăng tới 10 lần. Sự tạm dừng và bước khởi đầu mới Sau khi chiến tranh kết thúc, toàn bộ nhà xưởng, thiết bị sản xuất của Auto Union AG bị quân đội Liên Xô cũ tiếp quản. Năm 1949, Ban Giám đốc của Auto Union AG đã dời công ty về Bavaria và thành lập trụ sở mới tại Ingolstadt. Năm 1954, công ty đạt được mức siêu lợi nhuận (400.000 DM) nhưng tháng 08/1954 ở Bavaria đã nổ ra một cuộc đình công lớn và Auto Union đã phải chi khoảng 920.000 DM cho vụ này. Cũng trong năm này, Friedrich Flick, cổ đông lớn nhất của tập đoàn Sắt thép Maxhutte, đầu tư vào Auto Union. Năm 1957, Daimler-Benz tỏ ý muốn thâu tóm Auto Union để mở rộng sản xuất và tăng thị phần. Kế hoạch này được Flick hoàn toàn ủng hộ. Khi đó, Flick nắm giữ trong tay 41% cổ phần của Auto Union và 25% cổ phần của Daimler-Benz. Ngoài ra, Flick còn được nhà tư bản người Thuỵ Sỹ Ernst Göhner, người cũng nắm giữ tới 41% cổ phần của Auto Union, hậu thuẫn. Thiết kế tinh tế Nội thất sang trọng
  • 5. Ngày 24/04/1958, Daimler-Benz mua vào 88% cổ phần của Auto Union chỉ với giá 41 triệu DM. Chưa đầy một năm sau, Daimler-Benz đã thâu tóm toàn bộ Auto Union. Một nhà máy mới được xây dựng ở Ettinger Strasse và bắt đầu đi vào sản xuất vào tháng 07/1958. Lực lượng lao động sản xuất của Auto Union ở Ingolstadt tăng lên 3.700 người (1958) và 5.700 người (1959). Năm 1962, doanh thu của Auto Union bắt đầu giảm sút, trong khi Daimler-Benz ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đến năm 1964, Auto Union đối mặt với khó khăn nghiêm trọng về tài chính. Daimler-Benz nhận thấy không thể tiếp tục gánh vác thua lỗ cho Auto Union bèn tìm cách bán công ty này cho Volkswagen. Kỷ nguyên mới của Audi Sự chuyển giao quyền sở hữu Auto Union đặt dấu chấm hết cho kỷ nguyên động cơ hai kỳ. Gần 30.000 chiếc ô tô mang nhãn hiệu DKW bị tiêu huỷ. Nhà máy của Auto Union được dùng làm nơi lắp ráp VW Beetle. Cuối năm 1965, Auto Union phục hồi đôi chút nhờ có sự ra đời của những chiếc xe Audi bốn kỳ mới. Ngày 10/03/1969, Auto Union GmbH sát nhập với NSU Motorenwerke AG, và ngày 01/01/1969đổi tên là Audi NSU Union AG. Sản lượng của cả NSU và Audi tăng đều đặn đến cuối 1973 nhưng đến năm 1974, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng dầu mỏ, sản lượng của Audi NSU Union AG giảm mạnh, từ 400.000 xe (1973) xuống còn 330.000 xe (1974). Cuối năm 1975, ngành công nghiệp ô tô Đức bắt đầu hồi phục trở lại. Tháng 3/1977, chiếc xe mang nhãn hiệu NSU cuối cùng xuất xưởng. Kể từ đó, mọi chiếc xe do công ty sản xuất đều mang nhãn hiệu “Audi”. Sự ra đời của chiếc xe thể thao 4WD Audi Quattro năm 1980 thực sự làm chấn động ngành sản xuất ô tô thế giới, đưa Audi lên vị trí hàng đầu về công Động cơ mạnh mẽ Xứng danh ông hoàng xe hơi
  • 6. nghệ. Đây là chiếc xe thương mại đầu tiên được trang bị hệ thống dẫn động chủ động bốn bánh. Ngày 01/01/1985, Audi NSU Union AG được đổi tên thành AUDI AG. Trụ sở của công ty đồng thời cũng được chuyển về Ingolstadt. Cũng trong năm 1985, lần đầu tiên công ty dạt tổng vốn đầu tư lên tới 1 tỉ DM. Mùa thu năm 1986, Audi giới thiệu Audi 80 mới với thân xe mạ kẽm. Đến năm 1986, khi Audi 80 trở nên lạc hậu, Audi cho ra mắt chiếc Audi 89 và mẫu xe này nhanh chóng được ưa chuộng rộng rãi. Năm 1987, Audi giới thiệu Audi 90 mới và trang nhã với hàng loạt những tính năng mới. Năm 1988, Audi tung ra thị trường chiếc xe hạng sang đầu tiên, chiếc Audi V8 trang bị động cơ V8 3,6L - 4 van. Năm 1992, chiếc xe Audi 80 TDI du hành một vòng quanh thế giới, vượt qua quãng đường 40.273km với vận tốc trung bình 85,8km/h và mức tiêu hao nhiên liệu 3,78L/100km (74,7mpg). Năm 1991, Audi đạt mức doanh thu kỷ lục 14,8 tỉ DM. Sự ra đời của Audi A4 đã đem lại thành công rực rỡ cho Audi: Năm 1995, 120.000 chiếc Audi A4 được tiêu thụ ở Đức. Cuối năm 1995, danh tiếng của Audi càng được củng cố hơn khi hai chiếc concept TT Coupé và TT Roadster ra đời. Tiếp đó, Audi giới thiệu chiếc compact 2 cửa Audi A3 (1996) và Audi A6 (1997). Hiện nay, doanh số xe bán ra của Audi trên thị trường châu Âu liên tục tăng nhanh. Năm 2004, 779,441 chiếc Audi đã được tiêu thụ trên toàn thế giới, trong đó, doanh số xe bán ra của Audi tăng mạnh nhất ở Trung Đông (tăng 58,5%), Đông Âu (tăng 19,3%) và ở châu Phi (tăng 17,2%). Mặc dù không thông dụng như xe của Mercedes-Benz hay BMW, nhưng ô tô của Audi vẫn luôn là biểu tượng của công nghệ cao và thiết kế tinh tế. Audi Quattro - mẫu xe huyền thoại
  • 7. Thương hiệu Toyota ra đời như thế nào? Những người ưa thích tìm hiểu lịch sử các nhà sản xuất xe hơi hẳn đã quá biết về người sáng lập ra tập đoàn sản xuất xe hơi hàng đầu hiện nay Toyota Motors Company chính là người thợ mộc tài hoa Sakichi Toyoda. Không chỉ có vậy, khi mới được thành lập, nhà sản xuất xe hơi này lại mang tên Toyoda Automatic Loom Works Ltd. Vậy thì cái tên Toyota thực chất có từ bao giờ? Quay ngược thời gian trở về với năm 1936, để chón chào sự kiện chiếc xe du lịch đầu tiên ra đời, Toyoda Automatic Loom Works Ltd. đã tổ chức một cuộc thi thiết kế biểu trưng nhằm quảng bá hình ảnh của công ty. Yêu cầu đặt ra đối với biểu trưng này đó là phải khơi gợi cảm giác hưng phấn giống như đang ngồi trên một chiếc xe chạy với vận tốc cao. 27.000 thí sinh đã hưởng ứng cuộc thi này. Người thắng cuộc là một chàng trai đã sáng tạo và mạnh dạn đề xuất ý tưởng đổi tên công ty và những chiếc xe hơi này thành "Toyota". Con trai của Sakichi Toyoda - Kichiro Toyoda gần như ngay lập tức bị ấn tượng bởi cái tên mới này và tuyên bố đổi tên Toyoda thành Toyota."Toyota" trong tiếng Nhật rõ ràng có cách viết bay bướm hơn rất nhiều so với từ "Toyoda". Hơn nữa, để viết được từ "Toyota", người ta phải viết 8 nét – con số này trong văn hoá Nhật vốn là một biểu tượng cho sự may mắn và thịnh vượng. Cách phát âm của Toyota cũng rắn rỏi và mạnh mẽ hơn hẳn so với Toyoda. Tháng 4/1937, Toyota chính thức được đăng ký bản quyền thương mại. Mẫu xe Model AA, chiếc xe du lịch đầu tiên của Toyota cũng chính là chiếc xe đầu tiên mang thương hiệu Toyota .
  • 8. Tuy nhiên, đây vẫn chưa thể coi là thành công thực sự của Toyota. Do chưa thể định hướng được thương hiệu cũng như cách quảng bá thương hiệu một cách hiệu quả, rộng khắp, thương hiệu Toyota được mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ hiểu theo một cách khác nhau. Điều đó có nghĩa là, cùng một thương hiệu nhưng lại mang quá nhiều cách diễn đạt, khiến cho hình ảnh và thông điệp của công ty không nhất quán. Năm 1989, nhằm tạo ra một hình ảnh và một thông điệp nhất quán về thương hiệu Toyota, và cũng để tách biệt Toyota khỏi thương hiệu xe hơi hạng sang Lexus, Toyota đã thiết kế mẫu logo mới – chính là logo hiện nay của Toyota. Logo mới này gồm 3 hình elíp lồng vào nhau. Hai hình elíp nhỏ ở giữa, lồng vuông góc với nhau tượng trưng cho mối quan hệ gắn kết, sự tin tưởng lẫn nhau giữa khách hàng và Toyota, đồng thời tạo thành chữ T trong từ "Toyota". Hình elíp thứ ba tạo thành nền của logo, hàm ý sự phát triển không ngừng của Toyota trong lĩnh vực công nghệ xe hơi cũng như sự phát triển vượt bậc của công ty trong tương lai. Không chỉ có vậy, ngày nay, khi thương hiệu Toyota đã trở nên nổi tiếng toàn thế giới và là lựa chọn hàng đầu của người tiêu dùng, 3 hình elíp này còn biểu hiện những đặc tính rất riêng của Toyota. Đó là chất lượng, sự tin cậy và tinh thần không ngừng đổi mới.
  • 9. BMW có lịch sử phát triển như thế nào? Tòa nhà "tổng hành dinh" của BMW được xây dựng mô phỏng theo hình dáng của bốn chiếc xi-lanh Trước Thế chiến II BMW được Karl Friedrich Rapp thành lập vào tháng 10/1913. Ban đầu, thực chất đây là một nhà máy sản xuất động cơ máy bay (Bayerische Flugzeug- Werke) có trụ sở tại Milbertshofen, Munich. Do gặp khó khăn về tài chính, Rapp phải cầu viện trợ giúp từ Camillo Castiglioni và Max Friz và công ty được cơ cấu lại thành Bayerische Motoren Werke GmbH (BMW GmbH). Năm 1918, Franz Josef Popp, một nhà tư bản người Áo, chính thức tiếp quản BMW từ năm 1917 và đổi tên công ty thành BMW AG. Sau Thế chiến I, Hiệp ướcVersailles (1919) nghiêm cấm sản xuất máy bay tại Đức. Otto đóng cửa nhà máy và chuyển sang sản xuất phanh hơi cho tàu hoả. Chiếc ô tô đầu tiên do BMW chế tạo là chiếc BMW 3/15 (1928) song mãi đến tận 1933 chiếc xe thực sự "BMW", trang bị động cơ I6, mới ra đời. Trước Thế chiến II, cả hai chiếc sedan 327 và chiếc roadster 328 của BMW đều đã hiện đại và tân tiến hơn rất nhiều so với những chiếc xe cùng thời khác.
  • 10. Thế chiến II BMW là nhà cung cấp chính về động cơ cho Luftwaffe và Wehrmacht, trong đó có cả động cơ 801. BMW cũng sản xuất cả động cơ máy bay phản lực, động cơ BMW 003 và vũ khí tên lửa. Cuối Thế chiến II, nhà máy BMW ở Munich bị bom tàn phá nặng nề còn các nhà máy ở Eisenach, Dürrerhof, Basdorf và Zühlsdorf thì bị Liên Xô cũ chiếm đóng. Sau Thế chiến II, BMW bị quân Đồng Minh cấm mọi hoạt động sản xuất cho đến tận năm 1952. Ở miền Đông, nhà máy của BMW ở Eisenach chịu sự quản lý của Tập đoàn Awtowelo, một doanh nghiệp quốc doanh. Kể từ đó, các xe của BMW mang thương hiệu EMW đến tận năm 1955. Ở miền Đông, nhà sản xuất máy bay Bristol BAC quản lý các nhà máy của BMW, sau đó đem các mẫu 326, 327 và 328 về Anh dưới danh nghĩa bồi thường thiệt hại chiến tranh. Thời kỳ sau chiến tranh Năm 1952, lần đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ 2 BMW tái sản xuất xe du lịch song mẫu xe này đã không thể len chân vào thị trường xe hạng nhất. Năm 1959, BMW dự định sát nhập với Daimler-Benz song Chủ tịch Hội đồng Quản trị của BMW - Kurt Golda đã thuyết phục được cổ đông lớn nhất Herbert Quandt thay đổi quyết định. Vươn ra ngoài lãnh thổ nước Đức BMW bắt đầu sản xuất xe hơi ở Spartanburg, South Carolina năm 1994. Nhà máy này hoạt động 6 ngày một tuần, nghĩa là chế tạo xe hơi liên tục trong 110h/tuần, sử dụng 4.700 nhân công và sản lượng lên tới 500 chiếc mỗi ngày. Hiện nay, nhà máy này hàng năm xuất khẩu hơn 50,000 chiếc BMW 3 Series, chủ yếu sang thị trường Mỹ, Nhật, Úc, châu Phi và Trung Đông. Xe hơi của BMW cũng bắt đầu được sản xuất ở Shenyang, Trung Quốc vào tháng 10/2003, thông qua một liên doanh của BMW với nhà sản xuất xe hơi Trung Quốc Brilliance nhằm sản xuất BMW 3 Series và 5 Series cho thị trường nội địa. Tiếp quản Rover & Rolls-Royce
  • 11. Từ năm 1994 đến 2000, dưới sự lãnh đạo của Bernd Pischetsrieder, BMW mua lại Rover Group của British Group với mục đích đưa xe vào sản xuất hàng loạt. Kể từ đó hàng loạt mẫu xe du lịch danh tiếng của Rover như Mini, Land Rover và Ranger Rover và cả mẫu xe lịch sử Triumph đều thuộc sở hữu của BMW. Tuy nhiên, công việc kinh doanh không được suôn sẻ. Trong nhiều năm, xe Rover cạnh tranh gay gắt với BMW trong sản xuất, giành giật thị phần và thậm chí là ở cả chiến lược tiếp thị. Nhận thấy khó khăn trong việc phát triển Rover song song với BMW, BMW liên tiếp thay đổi chiến lược marketing cho bộ phận Rover. Năm 2000, sau 6 năm thua lỗ liên tiếp, BMW bán Rover cho Phoenix Consortium với giá rẻ mạt, đồng thời bán Land Rover và Range Rover cho Ford Motors. Đầu những năm 1990, BMW bắt đầu hợp tác với Rolls-Royce. Kể từ đó, Rolls-Royce Silver Seraph và Bentley Arnage sử dụng dộng cơ của BMW. Năm 1998, BMW đã mua lại thương hiệu Rolls-Royce với giá 40 triệu đôla.
  • 12. "Chiến binh" Jeep ra đời như thế nào? Hiện nay là thương hiệu xe hơi của DaimlerChrysler nhưng ban đầu, "jeep" được dùng để chỉ chiếc Bantam BRC - một chiếc xe quân sự. Mẫu xe này cũng được Willys-Overland và Ford Motor Company tham gia sản xuất trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới lần thứ II. Ngoài ra, người ta còn dùng từ "jeep" để chỉ dòng xe SUV - xe thể thao đa dụng. Chiếc xe jeep đầu tiên chính là chiếc Bantam BRC do American Bantam sản xuất theo đơn đặt hàng của quân đội Hoa Kỳ. Chiếc xe này thực sự đáp ứng được mọi yêu cầu của quân đội, nhưng đáng tiếc American Bantam Car Company lại là một công ty "vô danh tiểu tốt". Quân đội Hoa Kỳ cho rằng công ty này không thể cung ứng được số lượng lớn xe Jeep. Chính vì vậy, Willys-Overland và Ford Motor Company đã thử sản xuất xe jeep, sau khi quan sát chiếc xe jeep của American Bantam. Nhiều người cho rằng Willys và Ford đã tham khảo các bản kỹ thuật của Bantam để chế tạo thế hệ jeep thứ hai này. Cả 3 mẫu xe này (mỗi mẫu 1500 chiếc) đã được đem đi thử nghiệm, cuối cùng Willys, do trả thầu thấp nhất, đã trúng thầu hợp đồng chế tạo xe jeep đầu tiên. Công ty này đã chế tạo ra mẫu xe được coi là mẫu jeep tiêu chuẩn - mẫu xe jeep quân đội MB. Tuy nhiên, cũng giống American Bantam, Willys cũng chỉ là một hãng sản xuất xe hơi nho nhỏ, và quân đội Hoa Kỳ không thể không lo ngại về khả năng cung ứng xe jeep của hãng. Hơn nữa, vì Willys chỉ có một xưởng sản xuất duy nhất, nên nguy cơ nguồn cung ứng bị gián đoạn hoặc cắt đứt Bantam BRC-40 Willys MB (1941-1945)
  • 13. rất dễ xảy ra nếu xưởng sản xuất này bị phá huỷ. Đây là lý do khiến chính phủ Hoa Kỳ đã yêu cầu Ford tham gia sản xuât xe jeep, lấy nhãn hiệu là GPW (G = xe của chính phủ, P = chiều dài cơ sở, W = thiết kế của Willys). Như vậy là, dưới sự chỉ đạo của Charles E. Sorensen (Phó Chủ tịch Ford trong thời kỳ Chiến tranh thế giới lần thứ 2) đã sản xuất tới hơn 600.000 chiếc xe jeep. Xe jeep nhanh chóng được nhân bản trên hầu khắp thế giới, với nhiều phiên bản khác nhau. Mẫu xe này thậm chí còn phục vụ Hồng quân Liên Xô trong suốt Chiến tranh Thế giới lần thứ 2) Thương hiệu Jeep đã đổi chủ không ít lần. Jeep thuộc quyền sở hữu của Willys vào năm 1941, sau đó Willys được bán cho Kaiser năm 1953, đổi tên thành Kaiser-Jeep. Sau đó, Jeep hoạt động không hiệu quả, American Motors (AMC) đã mua lại thương hiệu Jeep từ tay Kaiser vào năm 1970. Sau đó, Chrysler Corporation đã mua lại AMC năm 1987, chỉ một thời gian ngắn sau khi mẫu Jeep CJ được thay thế bởi mẫu Jeep Wrangler (YJ) do AMC thiết kế. Cuối cùng, khi Chrysler sát nhập với Daimler-Benz, năm 1998, thương hiệu Jeep lại thuộc quyền sở hữu của DaimlerChrysler. Các dòng xe Jeep Jeep quân sự Bantam phát triển mẫu thiết kế thử nghiệm thành model BRC-40 - đây là một chiếc xe nhẹ, dễ điều khiển. Trái ngược hẳn với BRC-40 là mẫu MA - chắc chắn và mạnh mẽ. Đây chính là dòng xe đã phục vụ Hồng quân Liên Xô. Trong khi đó, model MB (1942-1945) lại giành được sự tín nhiệm tuyệt đối từ phía quân đội Hoa Kỳ. "Người hùng" của cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 đã thay đổi hoàn toàn cách nhìn của người Mỹ về xe hơi. Cái tên Jeep cũng ra đời trong thời điểm lịch sử này. M422 là mẫu xe AMC chế tạo dành riêng cho lính thuỷ đánh bộ Hoa Kỳ - đây là mẫu xe sử dụng động cơ V4 làm mát bằng không khí. Một chiếc Jeep khá quen thuộc nữa chính là dòng xe Humvee hiện nay được quân đội Hoa Kỳ hết sức ưa chuộng - HMMWW (Highly Mobile Multi-Purpose Wheeled Vehicle). Từ thành công của dòng MB, Willys đã phát triển những chiếc xe jeep dân sự (civillian jeep). Hầu hết các dòng xe jeep dân sự được sản xuất với số lượng rất hạn chế (vài chục chiếc), ngoại trừ mẫu CJ-5 với hơn 600.000 chiếc được sản xuất liên tục trong gần 30 năm. Willys cũng phát triển chiếc DJ (Dispatcher Jeep) thành những chiếc jeep mui cứng. Sau này, vào khoảng giữa thập niên 80, AMC lại tung ra thị trường mẫu Jeep Wrangler (doanh số CJ-3B
  • 15. Biểu tượng Ford ra đời từ bao giờ? Suốt hơn 100 năm lịch sử nghiên cứu, chế tạo và phát triển xe hơi, Ford đã không ít lần thay đổi mẫu mã biểu trưng của mình. Năm 1903, lần đầu tiên thương hiệu “Ford Motor Company” được dùng trong các giao dịch thương mại. Sau đó, khi mẫu xe Model A được sản xuất hàng loạt, Ford đã có những cải tiến đặc biệt để biến tên công ty trở thành biểu tượng của hãng bằng cách lồng tên công ty vào một khung viền cực kỳ thời trang vào thời đó. Cùng với sự ra đời của hàng loạt mẫu xe mới cũng như những thuận lợi hiếm có trong công việc kinh doanh, Ford nhận thấy sự cần thiết trong việc đơn giản hoá biểu tượng của mình. Năm 1906, Ford trình làng một mẫu biểu trưng hoàn toàn mới. Chữ Ford viết nghiêng 45o được cách điệu ở chữ F và chữ D với đuôi vắt xuống thật dài nhưng cũng thật mềm mại, bay bổng và tinh tế. Mẫu biểu trưng này được đăng ký bản quyền tại văn phòng phát minh sáng chế Mỹ năm 1909. Bên cạnh logo đã được đăng ký tại Mỹ, biểu tượng Ford hình ô-van lần đầu tiên được các công ty Perry, Thornton và Schreiber đưa vào Anh năm 1907. (Đây cũng chính là những người tiên phong trong việc đưa Ford vào nước Anh và thành lập Ford Ltd. tại Anh sau này). Biểu tượng hình ô-van này được dùng để quảng cáo cho các sản phẩm của Ford - “Dấu chứng nhận cho lòng tin và sự tiết kiệm ”. Bằng việc kết hợp chữ Ford cách điệu với kiểu dáng hình ô-van, năm 1911, Ford đưa ra logo và sử dụng thống nhất tại các đại lý ở Anh. Tuy nhiên, trên các sản phẩm và trong các giao dịch thương mại, Ford vẫn dùng logo đầu tiên cho đến tận thập niên 1920. Đã có thời gian Ford thay thế hoàn toàn logo hình ô-van bằng logo cánh chim hình tam giác trên các sản phẩm của mình. Logo này được thiết kế tượng trưng cho tốc độ, sự nhẹ nhàng, sự duyên dáng và ổn định. Logo có hai màu, vàng và xanh sậm, trên đó mang dòng chữ “Universal Car”. Henry Ford không thích biểu tượng này, chính vì vậy chẳng bao lâu sau người ta không còn thấy nó trên các sản phẩm của Ford.
  • 16. Model A 1927 là mẫu xe đầu tiên có gắn logo hình oval trên lưới tản nhiệt. Với nền màu xanh hoàng gia thẫm tương tự với logo ngày nay của Ford, logo này được sử dụng trong hầu hết các mẫu xe Ford cho đến cuối thập niên 1950. Mặc dù logo hình ô-van vẫn được sử dụng thống nhất trong toàn bộ các giao dịch thương mại, nhưng mãi đến giữa thập niên 1970, người ta mới lại thấy biểu trưng hình ô- van này xuất hiện trở lại trên các xe Ford. Năm 1976, logo Ford hình ô-van với hai gam màu xanh và bạc trở thành dấu hiệu chứng nhận thương hiệu của Ford Motor Company, nhằm thể hiện một hình ảnh nhất quán về công ty, các nhà máy, cơ sở vật chất cũng như các mẫu xe và tất cả những tài sản thuộc Ford Motor Company. Ngày 17/06/2003, kỷ niệm 100 năm thành lập, Ford Motor Company đã đưa ra một phiên bản mới của logo hình ô-van có đôi chút thay đổi, nhưng không nhiều và không dễ nhận thấy. Logo hoàn toàn mới này có tên là "Logo Kỷ niệm 100 năm ngày thành lập" (Ford Centennial Logo). Sứ mệnh trường tồn của Ford: sản phẩm tuyệt vời, công ty hùng mạnh và vì một thế giới tươi đẹp hơn.
  • 17. Biểu tượng của Audi có ý nghĩa như thế nào? Năm 1932, Auto Union quyết định chọn biểu tượng 4 hình tròn xếp lồng vào nhau, tượng trưng cho 4 công ty tiền thân của tập đoàn sản xuất xe hơi này. Tất cả các hình tròn có kích thước hoàn toàn bằng nhau, nằm bình đẳng trên một đường ngang, lồng vào nhau, thể hiện sự đoàn kết và tôn trọng lẫn nhau. Horch August Horch, một trong những người tiên phong của ngành công nghiệp ô tô Đức, chính là người đã sáng lập ra Horch Werke. Horch đã từng giữ những chức vụ cao nhất ở nhà máy sản xuất động cơ Carl Benz ( Mannheim). Năm 1899, Horch quyết định thành lập công ty sản xuất ô tô riêng ở Cologne, lấy tên là Horch & Cie. Ông dời công ty về Reichenbach (1902) và Zwickau (1904), và bắt đầu sản xuất ô tô sử dụng động cơ 4 xilanh. Tuy nhiên, do bất đồng quan điểm với Hội đồng Giám sát và Hội đồng Quản trị của công ty, August Horch rời khỏi Horch & Cie. Năm 1931, Horch-Werke giới thiệu mẫu xe mới tại Paris Motor Show: Một chiếc mui xếp thể thao với động cơ 12 xilanh, màu vàng tươi, mui xếp màu nâu nhạt, nội thất bọc da. Trong phân khúc xe hạng sang, Horch luôn dẫn đầu với doanh số bán ra luôn cao hơn các đối thủ của mình khoảng 30%. Tuy nhiên, sau đó công ty đã gặp khó khăn về tài chính, chủ yếu là do chi tiêu quá tay cho các hoạt động bán hàng. Audi Sau khi rời khỏi Horch & Cie., Horch thành lập một công ty ô tô khác và vẫn tiếp tục sử dụng nhãn hiệu Horch. Horch & Cie. đã kiện ông vì vi phạm bản quyền thương hiệu. Do đó, Horch phải tìm thương hiệu mới cho công ty của mình. Theo tiếng Đức cổ, từ "horch" có nghĩa là "lắng nghe", và Horch đã sử dụng một từ Latin đồng nghĩa với từ "horch", đó là từ "audi", để đặt tên cho những chiếc ô tô của ông. Tuy nhiên, rất nhiều người lại cho rằng Audi là từ viết tắt của "Auto Union Deutschland Ingolstadt" (Ingolstadt Auto Corporation, Germany).
  • 18. Chiếc xe mang nhãn hiệu Audi lần đầu tiên xuất hiện trên thị trường năm 1910. Sau Thế chiến I, Audi mở đầu trang sử mới cho ngành công nghiệp ô tô thế giới: Lần đầu tiên ở xe thương mại vô lăng được đặt bên trái và cần số được đặt ở giữa xe, giúp cho việc lái xe trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Audi bắt đầu sản xuất ô tô sử dụng động cơ 2612cc, và sau đó là động cơ 4 xi lanh 3564 cc, 4680 cc và 5720 cc. Năm 1923, Audi ra mắt mẫu xe đầu tiên sử dụng động cơ 6 xilanh 4655 cc. Bên cạnh đó Audi cũng thiết kế và sản xuất hệ thống phanh hơi. Năm 1927, lần đầu tiên động cơ 8 xilanh của Audi (còn được gọi là Imperator - Kẻ thống trị) xuất hiện trên thị trường. Tuy nhiên, vào thời điểm này phân khúc xe hạng sang trên toàn thế giới tụt dốc nghiêm trọng. Từ năm 1928 Audi thuộc sở hữu của Jörgen Skafte Rasmussen, chủ sở hữu tập đoàn DKW. DKW Năm 1904, Jörgen Skafte Rasmussen thành lập công ty cơ khí chế tạo máy ở Chemnitz. Năm 1916, ông bắt đầu nghiên cứu xe sử dụng động cơ hơi nước. Mặc dù các thì nghiệm này không thành công song Rasmussen vẫn quyết định đặt tên công ty là DKW - Dampf Kraft Wagen (Steam-Driven Vehicle). Năm 1919, Rasmussen mua thiết kế động cơ mini hai kỳ của Hugo Ruppe và phát triển thành động cơ xe máy "Das Kleine Wunder" (The Little Miracle). Vào những năm 1920, DKW trở thành nhà sản xuất xe máy và động cơ lớn nhất trên thế giới. Năm 1929, động cơ 8 xy lanh được sử dụng trong mẫu Audi Zwickau và Audi Dresden. Cũng vào năm đó, những mẫu xe sử dụng động cơ 4 xi lanh (theo bản quyền của Peugoet) và 6 xi lanh cũng được giới thiệu. Tuy nhiên, nắm bắt được nhu cầu của thị trường, Rasmussen nhanh chóng định hướng sang ô tô cỡ nhỏ. Chiếc xe thực sự "DKW" đầu tiên được sản xuất ở Berlin-Spandau và là xe dẫn động cầu sau. Cuối thập niên 1930, nhà máy ở Zwickau bắt đầu phát triển mẫu xe mới với những tính năng: động cơ xe máy <>
  • 19. 600cc, 2 xilanh, 2 kỳ, nội thất bọc da và dẫn động cầu trước. Chiếc xe này do hai nhà thiết kế của Audi – Walter Haustein và Oskar Arlt - phát triển và được đặt tên là DKW Front. Lần đầu tiên ra mắt công chúng vào năm 1931 tại Berlin Motor Show, DKW Front nhanh chóng trở thành chiếc xe cỡ nhỏ được yêu thích nhất và bán chạy nhất. Wanderer Wanderer ban đầu là một công ty sản xuất xe đạp được thành lập năm 1885 ở Chemnitz. Wanderer bắt đầu chế tạo những chiếc ô tô đầu tiên vào năm 1904. Mãi đến năm 1913, công ty mới đi vào sản xuất hàng loạt, khởi đầu là mẫu xe cỡ nhỏ "Puppchen". Năm 1926, chiếc xe Wanderer Type W10 sử dụng động cơ 1.5L 30hp xuất xưởng và nhanh chóng được thị trường đón nhận bởi nó là sự kết hợp của những công nghệ hiện đại nhất lúc bấy giờ. Để đáp ứng nhu cầu tăng vọt của thị trường, Wanderer đã xây dựng một xưởng sản xuất ở Siegmar ngoại ô Chemnitz với công suất 25 xe/ngày. Tuy nhiên, đến cuối thập niên 1920, Wanderer cũng lâm vào khủng hoảng. Ảnh audi.com
  • 20. Ôtô ra đời như thế nào? Không phải là phát minh trong ngày một ngày hai, cũng không phải của một nhà phát minh nào đó, lịch sử của xe hơi là một cuộc cách mạng trên toàn cầu. Theo ước tính thì có khoảng 100 nghìn bằng sáng chế đã được cấp cho những người phát minh ra những chiếc ôtô hiện đại ngày nay. Tuy nhiên, chúng ta hãy ngược dòng thời gian để tìm hiểu về chiếc ôtô từ những ngày sơ khai nhất. Vào năm 1769, chiếc xe tự hành đầu tiên đã được một kĩ sư cơ khí người Pháp tên là Nicolas Joseph Cugnot (1725-1804) phát minh nhằm phục vụ cho mục đích quân sự. Chiếc xe này sử dụng động cơ hơi nước do kĩ sư Brezin thuộc xưởng quân khí Paris chế tạo. Về cấu tạo, nó có 3 bánh lớn và có thể chuyển động với tốc độ tối đa 2 dặm rưỡi một giờ. Hệ thống động cơ hơi nước và bình hơi tách biệt với nhau và được đặt vào phía đầu mũi xe. Với tốc độ và công suất lớn, chiếc xe hơi nước này được quân đội Pháp sử dụng để kéo những khẩu pháo khổng lồ. Tuy nhiên, nhược điểm của nó là cứ 10 hoặc 15 phút lại phải dừng để tiếp nước và khởi động lại động cơ. Năm 1770, Cugnot đã cho sản xuất chiếc xe hơi nước 3 bánh chở khách đầu tiên với sức chứa 4 người cho mỗi lần chở. Năm 1771, Cugnot là người đầu tiên trên thế giới gặp tai nạn khi lái xe ôtô. Chiếc xe đã đâm vào một bức tường đá trên đường di chuyển. Tiếp đó là một loạt những điều không may xảy ra với nhà phát minh này: một trong những nhà tài trợ của Cugnot đã qua đời trong khi những người khác thì bị lưu vong nước ngoài do những biến động chính trị. Điều này đã khiến cho công việc của Cugnot phải dừng lại do không còn tiền để trang trải cho mọi chi phí. Sau Cugnot cũng đã có nhiều người tiếp tục sáng chế và cải tiến xe hơi nước và nó đã trở thành một phương tiện di chuyển phổ biến ở nhiều nước trong những năm sau đó. Vào giữa những năm 1832-1839, Robert Anderson, một nhà phát minh người Scotland đã cho ra đời chiếc xe chở khách chạy bằng điện thô sơ đầu tiên trên thế giới. Năm 1835, một giáo sư người Hà Lan tên là Stratingh đã thiết kế một chiếc xe chạy bằng điện có công suất nhỏ, và nó được trợ lý của ông là Christopher Becker lắp ráp chạy thử. Năm 1842, hai nhà phát minh Thomas Davenport người Mỹ và Robert Davidson người Scotland đã cho ra đời bởi những chiếc xe điện hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, loại xe của họ lại sử dụng pin điện không sạc lại nên rất tốn kém về chi phí sử dụng. Chiếc xe hơi nước của Cugnot
  • 21. Pháp và Anh là những quốc gia đầu tiên ủng hộ cho việc phát triển xe ôtô chạy bằng điện. Tuy nhiên, mãi tới năm 1895 Mỹ mới bắt đầu để ý tới loại phương tiện này, sau khi vào năm 1891, nhà phát minh A. L. Ryker cho ra đời chiếc xe điện ba bánh đầu tiên tại nước này. Sau đó, một nhà phát minh khác là William Morrison sản xuất chiếc xe điện có thể chở được 6 hành khách. Vào khoảng giữa những năm 1890-1900, nhiều cải tiến về chiếc xe điện đã diễn ra ở đất nước này và điều này đã khiến cho ngành công nghiệp sản xuất và dịch vụ của loại xe này rất phát triển. Chẳng hạn, vào năm 1897, một đội taxi của thành phố New York đã được thành lập bởi Công ty chuyên chở hàng hóa và hành khách bằng xe điện của Philadelphia. Bên cạnh và có thể gọi là song song với sự phát triển của xe chạy bằng điện là sự phát minh và phát triển của xe ôtô chạy bằng động cơ dầu. Và có lẽ, thành công và nổi tiếng nhất là những chiếc xe do Gottlieb Daimler và Karl Benz phát minh bởi chúng có nguyên tắc hoạt động và hình dáng giống với những chiếc xe hiện đại ngày nay. Tuy nhiên, trước khi nói về những phát minh của Daimler hay Benz, không thể không nhắc đến Nicolaus Otto, người đã phát minh ra động cơ đốt trong. Động cơ đốt trong bốn kỳ được Otto phát minh vào năm 1876 và nó đã trở thành một trong những phát minh vĩ đại nhất trong lĩnh vực động cơ xe máy. Đầu tiên nó được áp dụng cho những chiếc xe gắn máy, nhưng sau đó, cùng với sự phát triển của ôtô, loại động cơ này được cải tiến và áp dụng cho cả những chiếc xe ôtô sử dụng nhiên liệu lỏng. Trở lại với những chiếc xe chạy bằng động cơ dầu. Năm 1885, kĩ sư cơ khí người Đức Karl Benz đã thiết kế và cho ra đời chiếc xe ôtô chạy bằng động cơ đốt trong đầu tiên trên thế giới. Ban đầu nó được thiết kế với ba bánh, nhưng đến năm 1891, Benz đã cải tiến và biến nó trở thành chiếc xe ô-tô bốn bánh. Cũng vào năm 1885, Gottlieb Daimler cùng với đồng sự của mình là Wihelm Mayback đã cải tiến động cơ của Otto trở thành loại động cơ có thể sử dụng cho xe ôtô. Động cơ Daimler-Maybach có kích thước nhỏ, trọng lượng nhẹ và sử dụng một bộ chế hòa khí phun dầu, ngoài ra, nó còn có một xi-lanh đứng. Chính thiết kế có tính ứng dụng cao đó đã giúp cho các nhà sản xuất ô-tô nói chung và Daimler nói riêng tạo ra một cuộc cách mạng trong thiết kế kiểu dáng xe ô-tô. Tháng 8 năm 1886, Daimler đã ứng dụng động cơ này vào một chiếc xe buýt thông dụng và biến nó trở thành chiếc xe ô-tô bốn bánh đầu tiên trên thế giới có kiểu dáng như những chiếc xe hiện đại ngày nay. Một chiếc xe chạy bằng động cơ đốt trong Chiếc xe đầu tiên của Daimler
  • 22. Fiat có lịch sử phát triển như thế nào? FIAT (Fabbrica Italiana Automobili Torino) được thành lập ngày 11/07/1899) tại Turin, Italy. Người đứng đầu tập đoàn này là Giovanni Agnelli, người sáng lập và đồng thời là Chủ tịch kiêm Giám đốc Điều hành đầu tiên của Fiat. Năm 1900 đánh dấu sự ra đời của nhà máy Fiat đầu tiên tại Carso Dante với 150 nhân công. Bốn năm sau, năm 1904, cả thế giới được biết đến logo hình ovan màu xanh của Fiat. Năm 1908, Fiat khánh thành nhà máy sản xuất xe hơi đầu tiên của mình tại hoa Kỳ. Công việc của công ty phát triển nhanh chóng tại đất nước được coi là ông tổ của ngành xe hơi này. Để đáp ứng được nhu cầu của thị trường Hoa Kỳ cũng như tốc độ sản xuất của nhà máy, Fiat đã xây dựng thêm một số nhà máy chuyên sản xuất linh kiện, phụ tùng xe hơi. Chỉ một vài năm sau đó, Fiat bắt tay vào việc cải tổ công nghệ. Chính những nỗ lực này của Fiat khiến nó trở thành một trong những nhà sản xuất xe hơi đáng gờm nhất, đồng thời những chiếc xe của Fiat luôn dẫn đầu trong việc phá các kỷ lục của ngành công nghiệp xe hơi, không chỉ trong lĩnh vực công nghệ mà còn cả trên các đường đua. Năm 1916, Fiat khởi công xây dựng xưởng chế tạo xe hơi mang tên Lingotto. Việc xây dựng và trang bị diễn ra suốt 6 năm trời. Nhà máy cao 5 tầng này không chỉ là xưởng sản xuất xe hơi lớn nhất châu Âu mà còn nhanh chóng trở thành biểu tượng của ngành công nghiệp xe hơi Italy. Cũng trong thời gian này, Fiat bắt tay vào những lĩnh vực mới – xe động cơ điện, xe thương mại, xe lửa và thậm chí là thép. Công ty tiếp tục vươn tới thị trường Liên Xô. Những biểu tượng đầu tiên của tập đoàn Fiat
  • 23. Trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ 1, sản xuất của Fiat chủ yếu phục vụ mục đích quân sự. Fiat lâm vào khủng hoảng trầm trọng khi chiến tranh kết thúc nhưng nhà sản xuất xe hơi này nhanh chóng phục hồi và lấy lại được vị thế của mình – Đó là nhờ chính sách cắt giảm chi phí sản xuất được phát động năm 1923, khi đó Giovanni Agnelli đã được đề bạt là Tổng Giám đốc Điều hành của Fiat. Fiat quyết định tiến một bước xa hơn: sản xuất xe hơi trên quy mô lớn để cắt giảm chi phí tối da, nhờ đó hạ giá thành sản phẩm. Thời gian này Fiat còn được biết đến với những chương trình chăm sóc sức khỏe, câu lạc bộ thể thao và các trường kỹ thuật. Dưới chính sách của nhà cầm quyền Mussolini, Fiat buộc phải thu hẹp quy mô hoạt động của mình và nhắm vào thị trường nội địa. Công nghệ sử dụng trên những mẫu xe thương mại và xe tải nhanh chóng được cải tiến và thay đổi để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong nước. Chiến tranh Thế giới thứ 2 ảnh hưởng không nhỏ tới cơ cấu và quy mô sản xuất của Fiat. Nhiều nhà máy, xưởng sản xuất bị phá hủy. Năm 1945, Giovanni Agnelli qua đời. Người lên nắm quyền thay ông là Vittorio Valletta đã đề ra kế hoạch tái thiết vào năm 1948. Năm 1958, Fiat đầu tư vào cả hai lĩnh vực: xe hơi và máy nông nghiệp. Trong thời gian này, Italy trở thành trung tâm phát triển kinh tế hàng đầu châu Âu và chính ngành công nghiệp xe hơi nước nhà là nguồn động lực thiết yếu dẫn đến sự phát triển vượt bậc về kinh tế đó. Cháu nội Giovanni Agnelli – người có cùng tên với ông nội tiếp tục làm rạng danh dòng họ Agnelli khi trở thành chủ tịch Fiat năm 1966. Giovanni cháu tập trung toàn bộ nguồn lực của công ty vào phát triển công nghệ tự động trong sản xuất xe hơi. Nhờ đó, Fiat không chỉ đối phó được với cuộc khủng hoảng nhiên liệu diễn ra trong thời gian đó mà còn trở thành một đối thủ đáng gờm trong lĩnh vực công nghệ sản xuất xe hơi. Những năm 70, xe Fiat chiếm tới 80-90% thị phần tại đất nước mình. Chính nhờ những chính sách của Fiat mà tỉ lệ sở hữu xe hơi của Italy tăng lên đáng kể, từ 96 người/ xe lên 28 người/ xe. Năm 1978, Fiat giới thiệu hệ thống lắp ráp tự động sử dụng hệ thống robot (Robogate). Năm 1979, bộ phân chế tạo xe hơi được tách ra thành một công ty độc lập có tên là Fiat Auto S.P.A, với quyền sở hữu các thương hiệu Fiat, Lancia, Autobianchi, Abarth, Ferrari. Ban đầu, Fiat chỉ sở hữu 50% cổ phần của Ferrari, nhưng sau đó, con số này nhanh chóng tăng lên thành 87%. Giovanni Agnelli, ông tổ của tập đoàn Fiat Bravo, một tác phẩm mới của Fiat
  • 24. Năm 1984, Fiat tiếp quản Alfa Romeo và đến năm 1993 là thương hiệu Maserati danh tiếng. Cuộc khủng hoảng đầu thập niên 1990 khiến cho công ty chuyển hướng mục tiêu sang thị trường thế giới, với 60% doanh số thu được từ thị trường nước ngoài. Năm 1996, Cesare Romiti thay thế vị trí của Giovanni, nhưng Giovanni vẫn giữ chức vị Chủ tịch Danh dự. Tổng hành dinh của Fiat được chuyển từ Corsi Marconi về Palazzina Fiat, Lingotto năm 1997. Năm 1999, kỷ niệm 100 năm ngày thành lập công ty, Fiat đã thiết kế mẫu logo mới vẫn mang màu xanh truyền thống, nhưng với dáng vẻ mới – hình tròn. Kể từ năm 2000 đến nay, Fiat hầu như không trải qua nhiều thay đổi đáng kể, ngoài những mẫu xe mới vẫn lần lượt ra mắt người tiêu dùng và một mục tiêu nhất quán – sự đổi mới và công nghệ vượt trội để vững bước trong thế kỷ 21. Logo thứ 14, kỷ niệm 100 năm của tập đoàn Fiat
  • 25. Acura ra đời như thế nào? Cho dù đã khẳng định được vị thế của mình trên đất Mỹ, Honda vẫn quyết định tạo ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển của mình khi thành lập nhãn hiệu Acura cho riêng thị trường Bắc Mỹ. Vậy là từ tháng 3/1986, Acura được Honda sử dụng như một nhãn hiệu độc lập cho các dòng xe hạng sang ở Mỹ, Canada, Mexico và Hồng Kông, bao gồm xe đa dụng, xe gia đình và xe thể thao. Chỉ một năm sau khi ra đời, Acura đã nhanh chóng khẳng định vị thế của mình khi chiếc Acura Legend đoạt danh hiệu Xe nhập khẩu của năm (Import Car of the Year) và mẫu Integra được bầu chọn vào top 10 của tạp chí Car and Driver. Năm 1990, chỉ vài năm sau khi ra mắt thị trường Bắc Mỹ, đại lý của Acura 5 năm liên tiếp đứng đầu bảng xếp hạng Chỉ số Hài lòng của Khách hàng. Một năm sau, chiếc Acura Legend giành giải "Xe nhập khẩu Uy tín nhất của năm" của Motor Trend. Tiếp đến, năm 1997, Honda giới thiệu mẫu Integra Type-R. Đây là mẫu xe có tỉ số công suất: dung tích xi lanh hp/l cao nhất lúc bấy giờ (108hp/l). Chiếc xe thể thao NSX được xuất xưởng vào cuối thập niên 1990 được coi là phá vỡ mọi công thức toán học và khoa học. Ngay Motor Trend cũng từng nhận định đây là chiếc xe thể thao hàng đầu của mọi thời đại. Chiếc siêu xe với thân xe bằng nhôm này là sự kết hợp hoàn hảo giữa sự thoải mái hoàn hảo và độ an toàn tối đa cho người sử dụng. Một chiếc Acura NSX Thành công tiếp nối thành công, Acura tiếp tục tấn công vào thị trường xe thể thao đa dụng với mẫu xe huyền thoại MDX. Năm đầu tiên của thế kỷ 21 chứng kiến chiếc MDX giành danh hiệu Xe thể thao đa dụng uy tín nhất năm 2001 do tạp chí Motor Trend bình chọn. Logo của thương hiệu Acura
  • 26. Năm 2003, Acura khiến cho những vị khách hàng khó tính nhất cũng phải hài lòng khi trang bị cho mẫu xe mới TL với những tiện nghi như Bluetooth và đầu DVD. Ngay lập tức mẫu xe này trở thành chiếc xe hạng sang bán chạy nhất Hoa Kỳ vào năm 2004. Không tự mãn với những gì mình đạt được, sau tiện nghi và độ an toàn đó là những cải tiến về sức mạnh của động cơ. Năm 2004, chiếc Acura RL 2005 trở thành chiếc xe được mong đợi nhiều nhất với động cơ mạnh mẽ và hệ thống dẫn động bốn bánh chủ động SH-AWD™ được coi là cuộc cách mạng về động cơ ở Bắc Mỹ. Trong 5 năm từ 2000 đến 2005, Acura xếp vị trí thứ 3 đến thứ 8 trong bảng phân hạng mức độ hài lòng của khách hàng tại Mỹ. Năm 2005, doanh số toàn cầu của Acura đạt 743.000 chiếc và 11 tháng đầu năm 2006 là 661.500. Từ năm 2004-2006, chiếc TSX trong suốt 3 năm liền được bình chọn vào top 10 của Car and Driver. Acura RDX cũng không chịu kém phần khi giành được danh hiệu "Xe An toàn nhất" do Viện An toàn giao thông Quốc gia Mỹ (IIHS) bình chọn cho xe SUV hạng trung. Acura RDX Sau gần hai thập kỷ nghiên cứu và phát triển, sự ra đời của Acura là bằng chứng cho sự nỗ lực không ngừng của Honda trong việc chinh phục những thượng đế khó tính tại thị trường Bắc Mỹ. Acura không chỉ đơn thuần là thương hiệu xe hơi độc lập của Honda, mà hơn thế nữa nó còn là thương hiệu xe hơi hạng sang đầu tiên của Nhật Bản. Có thể nói, Acura là kẻ tiên phong đặt những viên gạch đầu tiên, là kẻ dẫn đường cho những chiếc xe quốc tịch Nhật Bản trong con đường xâm chiếm thị trường Bắc Mỹ. Theo chân Acura, Lexus (Toyota) và Infiniti (Nissan) mới biết tìm đường sang Bắc Mỹ. Khi tên tuổi của Acura đã được chứng nhận bởi những người Mỹ khó tính, Honda quyết định đưa đứa con tài năng của mình sang chinh phục thị trường Mexico (2004) và Trung Quốc (2006). Gần đây, Honda Motor cũng thông báo sẽ bắt đầu bán các sản phẩm mang nhãn hiệu Acura tại quê hương vào năm 2008. Honda dự tính thiết lập 2.400 đại lý Acura trên toàn quốc và doanh số
  • 27. khoảng 800.000 xe/năm. Hiện tại, các sản phẩm của Acura được bán ở Nhật dưới tên khác như mẫu RL là Honda Legend, Acura TL là Inspire còn mẫu xe thể thao đa dụng MDX là Accord. Một chiếc Legend Như vậy, không phải đơn giản mà Acura được vinh dự đứng trong hàng ngũ những dòng xe hạng sang. Thành công đó, bên cạnh sự tiếp sức của công ty mẹ thông qua những nền tảng ban đầu, phần lớn là nhờ có những nỗ lực của bản thân. Giờ đây, Acura có thể tự hào khi được ngành công nghiệp xe hơi toàn thế giới coi là một trong những thương hiệu chuyên sản xuất những chiếc xe với thiết kế tinh tế đầy sức trẻ và sáng tạo, động cơ mạnh mẽ, và được sản xuất hết sức tinh xảo.
  • 28. Citroen ra đời như thế nào? Tập đoàn sản xuất ôtô Citroen ngày nay không còn nữa do nó bị tập đoàn sản xuất lốp xe Michelin mua lại từ trước chiến tranh thế giới thứ II. Tuy nhiên, cái tên Citroen còn tồn tại và hiện vẫn đang là một trong những thương hiệu ôtô quen thuộc với nhiều người. Vào những năm 20, 30 của thế kỷ XX, ôtô Citroen tràn ngập ở Pháp và cả châu Âu. Vào thời điểm đỉnh cao, thị phần của ôtô Citroen tại Pháp lên tới gần 50%, con số mà nhiều đại gia lớn nhất thế giới cũng không dám mơ tới. A.G.Citroen và niềm đam mê cơ khí André Gustave Citroen sinh ngày 5/2/1878 tại Paris, cụ nội của André Gustave Citroen vốn là người xứ Amsterdam (Hà Lan) chuyên sống bằng nghề buôn bán hoa quả. Năm 1870, trong lần đi mở cửa hàng kinh doanh tại Warzava, ông Levie Citroen đã quen và cưới bà Amalia, một phụ nữ người Balan. André Gustave Citroen là con thứ ba của ông bà Levie Citroen. André Gustave Citroen được gia đình cho nhập học tại trường Lyce’e Condorcet nổi tiếng chỉ dành cho giới thượng lưu và giàu có. Chính tại ngôi trường này André Gustave Citroen đã học cùng và làm quen với cậu bé Louis Renault cùng tuổi và sau này trở thành đối thủ cạnh tranh lớn nhất của ông trong lĩnh vực xe hơi. Học hết phổ thông, năm 1898 Citroen được tuyển chọn vào trường Đại học bách khoa Polytechnique Paris. Sau khi tốt nghiệp, André Gustave Citroen có ý định làm công chức tại cơ quan Nhà nước chính quyền nhưng không được. Ông lang thang đi tìm việc và trong cậy vào người chị gái lấy chồng và sống tại Balan. André Gustave Citroen làm việc tại một xưởng cơ khí của người anh rể tại Glowno. Vốn là con nhà thợ kim hoàn, lại học bách khoa nên André Gustave Citroen tỏ ra rất khéo tay và thông minh với lĩnh vực cơ khí. André Gustave Citroen thấy rằng các bánh răng bằng gỗ tuy dễ làm nhưng rất chóng hỏng.Vì vậy ông đã tìm tòi nghĩ cách sản xuất bánh răng chuyên dụng từ kim loại và là người đầu tiên phát minh các loại bánh răng kim loại chuyên dụng. Ngay lập tức ông đăng ký bản quyền sáng chế và bắt đầu đi vào con đường sản xuất chế tạo hàng cơ khí. Đến với ngành công nghiệp sản xuất xe hơi Biểu tượng của Citroen A.G.Citroen
  • 29. Năm 1907, André Gustave Citroen đến với ngành sản xuất xe hơi khá tình cờ, thông qua người chú ruột, ông biết có một nhà máy chuyên sản xuất phụ tùng và động cơ ôtô bị phá sản. André Gustave Citroen đã quyết định dùng phần lớn tài sản được thừa kế để đầu tư vào nhà máy sản xuất cơ khí này. Sự nghiệp sản xuất và kinh doanh trong ngành công nghiệp xe hơi của André Gustave Citroen bắt đầu từ đó. Từ năm 1908, André Gustave Citroen trực tiếp làm Giám đốc công ty phụ tùng ôtô Mors này. Năm 1924, công ty cơ khí ôtô Mors được chuyển đổi thành công ty cổ phần và André Gustave Citroen là người nắm giữ đa số cổ phần. Ông cũng là người trực tiếp điều hành sản xuất và kinh doanh của công ty. Bắt đầu từ đây là những năm hoàng kim của xe ôtô Citroen. Ông chủ André Gustave Citroen trở thành nổi danh trong giới công nghiệp ôtô châu Âu và thế giới. Chỉ trong vòng 10 năm, từ năm 1919 đến 1929, công ty xe hơi Citroen đã phát triển với một tốc độ chóng mặt. Mặt bằng sản xuất và lắp ráp của công ty đã tăng từ 198.000 m2 lên 850.000 m2 . Số lượng nhân công tăng từ 4.000 lên hơn 32.000 người. Thay vì mỗi năm xuất xưởng vài nghìn xe thì 10 năm sau, năng lực sản xuất của Citroen đã là 102.891 chiếc. Và điều kỳ diệu là Citroen sản xuất xe nào là bán được ngay xe đó. Thành công nhờ tài marketing Cho đến đầu những năm 1930, Citroen đã bán được gần 1 triệu chiếc xe. Mặc dù vậy André Gustave Citroen còn cho rằng tiềm năng vẫn rất lớn. Ông chủ trương phải tăng cường marketing và quảng cáo để "đánh thức sự chú ý của cả 40 triệu người dân nước Pháp". André Gustave Citroen không chỉ nhằm vào một đối tượng khách hàng, những người giàu có, khá giả. Với ông, toàn dân đều là đối tượng để thu hút, quảng cáo. Nếu không là khách hàng trực tiếp thì cũng là khách hàng tiềm năng. Thương hiệu xe hơi Citroen phải đi vào tiềm thức của mỗi người dân, bất kể già trẻ, đó là mong ước là mục tiêu thương hiệu của ông chủ đầy tham vọng. André Gustave Citroen quảng cáo nhiều nhưng không hẳn là nhằm vào một loại xe, một sản phẩm cụ thể. Ông quảng bá thương hiệu Citroen. Những gì mà các doanh nghiệp lớn ngày nay vẫn làm và gọi là quan hệ công chúng thì André Gustave Citroen đã thực hiện cách đây gần 90 năm. André Gustave Citroen đặc biệt năng động và sáng tạo với những ý tưởng Một trong những sản phẩm đầu tiên của Citroen Citroen C-Airlounge
  • 30. mới để quảng bá thương hiệu. Ngày nay trong nhiều nghiên cứu cũng như sách giáo khoa về Marketing và thương hiệu, những gì mà André Gustave Citroen đã làm luôn được coi là mẫu mực. Citroen là một trong rất ít doanh nghiệp lúc đó có cả một bộ phận quảng cáo chuyên nghiệp. André Gustave Citroen đã thuê Pierre Euge’ne Louys, một nhà báo, một chuyên gia thông tin làm giám đốc quảng cáo cho mình. Sử dụng cả tháp Eiffel kỳ vĩ để quảng cáo André Gustave Citroen đã dùng mọi hình thức và phương tiện quảng cáo để xây dựng và quảng bá thương hiệu xe ôtô Citroen của mình. Ông đặc biệt chú ý đến quảng cáo trên các tờ báo nổi tiếng như Le Figaro, Le Petit Parisien, Le Temps, Le Matin hay L’Illustration. Số liệu thống kê cho thấy tổng số tờ báo được phát hành lên tới con số 15 triệu bản. Để quảng bá thương hiệu, André Gustave Citroen đặc biệt quan tâm đến hình ảnh của các chi nhánh, đại lý bán xe. Ông sử dụng kiến trúc sư nổi tiếng Georges Wyho chuyên thiết kế hình ảnh của các toà nhà chi nhánh, cửa hàng bán xe Citroen. Mỗi lần khai trương một Citroen - Automobilsalon, André Gustave Citroen đều coi đó là sự kiện quan trọng và là cơ hội để quảng bá thương hiệu thật rầm rộ. Ông còn xuất bản tờ tin riêng của hãng mang tên Le Citroen in thật đẹp và sang trọng để phát tặng cho khách đến thăm quan xe Citroen. André Gustave Citroen cũng tự tạo ra các sự kiện, đã tổ chức Triển lãm xe Citroen năm 1931 trên khu đất rộng hơn 15.000 m2 giữa quảng trường Place de l’ Europa.André Gustave Citroen rất chú ý chăm sóc hệ thống đại lý bán hàng. Và ông có ý tưởng thường xuyên tổ chức các chuyến tham quan xưởng sản xuất và xưởng lắp ráp xe Citroen dành cho đại lý và khách hàng ruột. Cũng với cách nghĩ đó, André Gustave Citroen còn tổ chức những chuyến thám hiểm châu Phi, những cuộc chinh phục sa mạc Sahara với hàng nghìn cây số. Đương nhiên ông chỉ dùng xe ô tô Citroen để phục vụ cho các đoàn đi.Ông đã táo bạo sử dụng cả tháp Eiffel kỳ vĩ để phục vụ cho mục đích quảng cáo thương hiệu Citroen. Vào một tối tháng 7 năm 1925 cả thành Paris đột nhiên sáng rực bởi ánh đèn từ tháp Eiffel với dòng chữ Citroen khổng lồ cao tới 25 m. André Gustave Citroen đã phải dùng tới gần 250.000 chiếc bóng đèn các màu, gần 600 km dây điện các loại. Tổng diện tích được chiếu sáng là khoảng 1.200 m2. Từ đó trở đi cho tới năm 1936, Citroen vẫn thường xuyên sử dụng đèn trang Tháp Eiffel và dòng chữ Citroen rực sáng
  • 31. trí tại tháp Eiffel để quảng cáo cho thương hiệu và các dòng xe mới ra của hãng. Năm 1989, kỷ niệm tháp Eiffel tròn 100 tuổi, người dân Paris và khách du lịch khắp mọi nơi trên thế giới lại có dịp xem lại hình ảnh thương hiệu Citroen được quảng cáo bằng đèn theo mẫu cũ trước kia của Gustave Citroen, người đã khai sinh ra nó.
  • 32. Báo đốm Jaguar ra đời như thế nào? Ngày 04/09/1922, tại một thị trấn phía nam bờ biển vùng Blackpool (Anh), hai thanh niên trẻ tuổi nhưng rất say mê motor William Lyons và William Walmsley đã thành lập nên Swallow Sidecar với tham vọng sản xuất những chiếc xe 3 bánh (sidecar). Lúc đầu, Swallow Sidecar Company chỉ có hai tầng gác tại Blackpool để làm trụ sở và xưởng. Toàn bộ công việc được thực hiện bằng tay. Nhắc đến Jaguar không thể không nhắc đến Arthur Whittaker, người đã giúp những chiếc xe đầu tiên của Swallow Sidecar đến với khách hàng một cách nhanh chóng và ấn tượng nhất. Năm 1926, do nhu cầu phát triển kinh doanh, Swallow Sidecar đổi tên thành Swallow Sidecar and Coachbuilding Co. và tìm kiếm một xưởng sản xuất mới. Tại đây, hãng đã sản xuất thân xe cho rất nhiều nhà sản xuất xe hơi khác, trong đó có Morris, Fiat, Wolseley, Swift, và Standard. Bằng cách dùng nhôm dập để sản xuất vỏ sidecar, Swallow Sidecar nhanh chóng trở nên nổi tiếng với doanh số không ngừng tăng vọt. Năm 1927, khi Herbert Austin cho ra đời chiếc xe hạng nhỏ Austin Seven giá rẻ, dễ lái và tiện dụng nhưng thiếu cá tính, Lyons chế tạo một chiếc xe 2 chỗ, gắn thân Swallow Sidecar trên khung gầm của Austin Seven. Ngay lập tức, một đơn đặt hàng 500 chiếc được đặt lên bàn Arthur Whittaker. Đây cũng là điểm khởi đầu cho mối liên minh mới giữa Lyons và Bertie Henly, người điều hành garage nổi tiếng nước Anh, Henlys. Với giá 175 bảng hay 185 bảng cho phiên bản mui cứng, Austin Seven Swallow luôn “cháy hàng”. Không dừng lại ở đó, Lyons còn tiếp tục cho ra mắt mẫu xe có vỏ Swallow gắn trên khung gầm lớn hơn, mang tên Morris Cowley. Ảnh hưởng của Swallow ngày càng lớn khi Austin Seven Swallow Saloon trình làng năm 1928 và tiếp tục gặt hái thành công. Một chiếc SS1 Sir William Lyons (1901- 1985)
  • 33. Sau một thời gian liên kết sản xuất với các hãng xe khác, Lyons không muốn chế tạo vỏ xe của mình trên khung gầm của mẫu xe khác nữa: ông muốn nhắm tới những chiếc xe cá tính chứ không đơn thuần chỉ sản xuất xe thể thao. Lyons đã khôn ngoan liên kết với Standard Motor Company để chế tạo chiếc xe hoàn chỉnh đầu tiên - chiếc SS1, được chế tạo đựa trên động cơ 6 Standard xi lanh và sự thừa hưởng đầy sáng tạo của thân xe Standard. Chiếc xe này được ra mắt công chúng năm 1931 tại triển lãm xe hơi London. Năm 1933, tên của công ty một lần nữa lại được đổi thành SS Cars Ltd dưới sự điều hành của Giám đốc Lyons. Năm 1936, SS Cars hoàn toàn thuộc sở hữu của Lyons. Năm 1935, lần đầu tiên cụm từ "Jaguar" được biết đến trên các mẫu xe của hãng. SS Cars bắt tay vào chế tạo nhiều hạng xe khác nhau, bao gồm limousine, xe mui trần, xe thể thao, với động cơ 1.5l, 2.5l và 3.5l, đồng thời nỗ lực nâng công suất động cơ từ 75hp lên 105hp. Không chỉ có vậy, Lyons còn tập trung thiết kế vỏ xe sao cho thật ấn tượng, khác biệt hoàn toàn so với các mẫu trước đó. Chiến tranh Thế giới thứ 2 nổ ra, SS Cars tập trung cho chiến tranh và quay trở về sản xuất dòng xe sidecar. Khi chiến tranh kết thúc, Lyons quyết định đổi tên SS Cars thành Jaguar Cars Ltd do tên viết tắt của hãng trùng với tên gọi của lực lượng phát xít Đức. Jaguar là tên gọi loài báo đốm nổi tiếng châu Mỹ, biểu tượng của sức mạnh và quyền lực trong văn hóa các nước Nam Mỹ. Người dân ở đây tin rằng, Jaguar là điểm nối giữa sự sống và cái chết. Jaguar sinh ra để bảo vệ các hoàng đế. Dù Lyons không thực sự thích nhưng cuối cùng, cái tên "Jaguar" vẫn được thông qua. Ngay sau khi ra mắt tại khách sạn Mayfair, London, SS Jaguar nhận hàng loạt đơn đặt hàng bởi nó có giá chỉ bằng một phần tư Bentley dù không hề thua kém về chất lượng. Thế nhưng, mãi 11 năm sau, Lyons mới chính thức đưa biểu tượng chú báo đốm Bắc Mỹ đang vồ mồi lên chiếc Jaguar Mark VIII 1956. Biểu tượng đó đã đi theo Jaguar 30 năm sau và là hình mẫu để các kỹ sư thiết kế theo đúng vóc dáng mạnh mẽ, tràn trề nhựa sống và hoang dã của loài vật được mệnh danh là chúa tể rừng xanh. Năm 1966, William Lyons giữ chức Giám đốc Điều hành kiêm Chủ tịch và Tổng Giám đốc. Ngày 11/07/1966, Jaguar Cars Ltd. tuyên bố hợp nhất với British Motor Corporation Ltd. Chỉ 2 năm sau đó, sự sát nhập của Jaguar với Leylang biến nhà sản xuất xe hơi này trở thành tập đoàn sản xuất xe hơi lớn nhất nước Anh. Năm 1972, Lyons nghỉ hưu, khiến cho cả một Biểu tượng của Jaguar Cars Báo đốm Jaguar
  • 34. thời gian dài sau đó hãng gặp khá nhiều sóng gió với những chiến lược không rõ ràng. Mãi đến tháng 04/1980, “vị cứu tinh” của Jaguar mới xuất hiện, đó là John Egan – người được coi là đã hồi sinh Jaguar. Vị giám đốc 40 tuổi này thực sự đã đem lại hơi thở mới cho hãng sản xuất xe hơi Jaguar. Bởi vậy, năm 1985, việc Jaguar ổn định và phát triển trở lại không hề khiến ngành công nghiệp xe hơi ngạc nhiên. Cuối năm 1989 đầu năm 1990, Ford mua lại Jaguar và đến năm 1999, hãng trở thành một trong những nhãn hiệu xe độc lập của Ford Motors, giống như Aston Martin và Volvo. Trong suốt 84 năm lịch sử nghiên cứu và chế tạo, Jaguar đã cống hiến cho ngành sản xuất xe hơi hàng loạt mẫu xe cũng như các sản phẩm khác nhau. Đến nay, Jaguar vẫn luôn tự hào với triết lý chế tạo những chiếc xe đẹp nhất, nhanh nhất trên cơ sở kết hợp giữa trí thông minh công nghệ với sự sang trọng đương đại.
  • 35. "Chiến binh" Ural ra đời như thế nào? Ngay từ thời chiến tranh thế giới thứ nhất, quân đội các nước châu Âu đã dùng đến môtô. Khi đó, môtô không phải chỉ là một phương tiện giao thông, mà còn là một loại xe tác chiến. Trong thời gian giữa hai cuộc thế chiến, kỹ thuật môtô quân sự được tiếp tục hoàn thiện ở Anh, Mỹ, Pháp. Thế nhưng, vượt trội hơn cả trong lĩnh vực này là nước Đức. Đến năm 1939, trong trang bị của quân đội Đế chế Đức đã có những chiếc môtô mạnh mẽ và chắc chắn mang nhãn hiệu BMW, DKW, Zundapp. Môtô có tính năng chạy mọi địa hình không tồi và trên thùng xe thường có đặt khẩu cối cá nhân hoặc súng trung liên. Ở Liên xô, trước chiến tranh thế giới thứ hai, ngành chế tạo môtô không được quan tâm nhiều như ngành ôtô. Môtô được xuất xưởng rải rác từ những cơ sở ở Ijevsk, Taganrora, ngoại ô Podolsk và Serpukhov, với số lượng khá khiêm tốn: chỉ khoảng 6 nghìn chiếc một năm. Môtô Xô-viết tiền chiến đôi khi không được bền. Tính chất đó khiến chúng ít phù hợp với công tác quân sự. Ban lãnh đạo đất nước đã sớm nhận ra vấn đề này. Vào cuối năm 1930, Hội đồng Dân ủy Quốc phòng Liên Xô đã có cuộc họp bí mật, liên quan đến việc thành lập đội quân môtô hạng nặng chuyên dụng, quyết định lấy chiếc môtô Đức BMW– R71 làm mẫu. Để phanh phui những bí quyết kết cấu bên trong của loại xe này, đã có 5 chiếc môtô được mua thông qua nước thứ ba. Và các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật ưu tú nhất của ngành công nghiệp ôtô Liên Xô đã khẩn trương nghiên cứu chúng một cách kỹ lưỡng. Kết quả là, trong một thời gian khá ngắn ngủi, Liên Xô đã có thể chế ra loại xe giống như chiếc BMW–R71. Tuy nhiên, xe môtô Xô-viết không phải là bản sao y nguyên của xe Đức BMW. Chẳng hạn, khung và hệ thống treo đàn hồi đã được cải tiến một cách nghiêm túc, trở nên linh hoạt hơn của xe Đức. Trên thực tế, động cơ bốn kỳ hai xilanh nằm ngang đã được chế tạo mới. Với dung tích 750cc và công suất 22 mã lực, nó được dự trù dùng được loại xăng có chất lượng thấp hơn động cơ của xe Đức, và thêm nữa, ít gây tiếng ồn hơn. Đầu năm 1941, những chiếc xe môtô hạng nặng M-72 đã được trình ra với các nhà quân sự, xe được chấm điểm “ưu” để đưa vào sản xuất hàng loạt BMW-R71 của quân Đức trong thế chiến II URAL M -72
  • 36. ngay lập tức tại một số công xưởng. Quân đội đã nhận được một phương tiện giao thông mới, đa năng và khá bền chắc. Cũng như người anh em Đức của nó, M-72 là phương án xe môtô thuyền, có thể trang bị súng cối cá nhân. Tháng 10 năm 1941, khi thủ đô Nga nằm trong tình thế bị bao vây, xưởng môtô Matxcơva được sơ tán về Ural, thành phố Irbit. Đơn sơ, thiếu thốn là tình cảnh tại cơ sở thứ nhất chuyên sản xuất môtô hạng nặng của Liên xô. Nhưng chỉ đến tháng 2 năm 1942, xưởng môtô Irbit đã cho đời ra loạt sản phẩm đầu tiên. Tính chung, những năm chiến tranh, chỉ riêng từ Irbit đã cung cấp cho quân đội 9800 chiếc xe. Ngoài ra, các môtô M-72 còn được sản xuất tại Tiumen và thành phố Gorki (nay là Nijni Novgorod). Trung đoàn môtô của Hồng quân Xô-viết Những chiếc Ural M-72 được sử dụng rộng rãi phục vụ các chiến sĩ trinh sát, bộ binh, cơ giới, xe tăng, liên lạc, các đơn vị sửa chữa máy móc quân dụng. Thậm chí các chiến sĩ pháo binh còn dùng nó để chuyên chở những khẩu đại bác hạng nhẹ. Các chiến sĩ mặt trận đánh giá xứng đáng độ bền vững và tính dễ sử dụng, cũng như chất lượng, tốc độ của nó. Với một người lái và hai hành khách, Ural M-72 ba bánh có trọng tải hơn một tấn rưỡi, nhưng công suất vẫn đủ mạnh để đẩy nó chạy với tốc độ tối đa đến 85km/giờ. Môtô đơn thì nhẹ hơn và chạy nhanh hơn, đến 105km/giờ, nhưng những chiếc như thế ít được làm ra. Từ sau khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai, loại hình xe môtô nhiều cống hiến này tiếp tục được xuất xưởng cho đến năm 1956. Còn mẫu xe cải tiến, thì ra đời năm 1960. Khung và hệ thống treo đàn hồi của M-72 được dùng để chế ra các xe môtô Irbit mới, dân dụng cũng như quân dụng. Từ năm 1953, những chiếc xe môtô hai bánh và ba bánh từ Ural được đem xuất khẩu ra nước ngoài. Chúng trở nên nổi tiếng không chỉ ở các nước Đông Âu mà cả ở Việt Nam với tên gọi "Xít-đờ-ca". Xe môtô Nga hạng nặng được biết đến ở Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Đức, Hà Lan, Chilê, Columbia, Argentina. Xưởng môtô Irbit là một trong số không nhiều xí nghiệp chế tạo máy của Nga, có sản phẩm được cấp chứng chỉ ở Mỹ. Thế hệ "Gear-Up"
  • 37. Ngày nay, xí nghiệp Irbit còn có loại môtô thuyền quân dụng “Gear-Up”. Đây vốn là loại hình xe dân dụng hai chỗ, được trang bị động cơ công suất 32 mã lực, dẫn động bánh sau và bánh thuyền xe, tay đòn khung treo phía trước. Trên xe môtô này có thể đặt súng cối hay tên lửa chống tăng, và nó trở thành cỗ xe nhà binh khá là “hầm hố”: chạy nhanh, xoay chuyển nhẹ nhàng và thêm nữa, cũng chắc chắn, dễ sử dụng khi vận hành, y như các tiền bối của nó thời chiến tranh thế giới thứ hai.
  • 38. Ai là người sáng lập ra huyền thoại Bugatti? Người được mệnh danh là "Nghệ nhân Chế tạo Xe hơi" Người sáng lập Bugatti huyền thoại không phải ai khác chính là Ettore Bugatti, sinh ngày 15 tháng 9 năm 1881 tại Milan, Ý, trong một gia đình nghệ sĩ mà tên tuổi của người cha đã vượt qua những danh giới địa lý của nước Ý, nhà điêu khắc Carlo Buggatti. Sau khi tốt nghiệp Trung học ông theo học tại Viện hàn lâm Nghệ thuật (Milan), nhưng sức cuốn hút của nghệ thuật cũng không giữ chân ông được bao lâu. Ông rời Viện Hàn Lâm để theo học nghề tại xưởng sản xuất xe đạp Prinetti & Stucchi. Năm 17 tuổi ông đã chế tạo những chiếc xe 3 bánh gắn động cơ, vào những năm cuối của thế kỷ 18 ông tham dự một giải đua xe với chiếc xe đầu tiên của ông. Năm 1901 tại triển lãm quốc tế Milan, ông giới thiệu chiếc xe tự tạo với sự giúp đỡ của anh em nhà Gulinelli và đã giành được giải thưởng do Câu Lạc Bộ Ô tô Pháp trao tặng. Do chưa đến tuổi hợp pháp để đứng tên trong các hợp đồng, thân phụ ông đã phải đứng tên trong các hợp đồng làm việc cho Dietrich. Đáng tiếc là Dietrich không thể đáp ứng niềm đam mê nghiên cứu và chế tạo xe đua của Ettore. Ông nhanh chóng chấm dứt hợp đồng và chuyển sang làm việc cho Emil Mathis, tại đây ông chế tạo chiếc xe hơi với động cơ 4 xi lanh những vẫn không quên tiếp tục niềm đam mê chế tạo xe đua của mình. Sau gần mười năm làm việc cho nhiều hãng sản xuất xe hơi, Ettore Bugatti thành lập hãng riêng của mình tại Molsheim, gần Strasbourg vào năm 1909. Ông đã thuyết phục được một ngân hàng cho vay tiền để chế tạo 10 chiếc xe
  • 39. hơi và 5 động cơ máy bay. Ông khởi nghiệp bằng việc chế tạo động cơ 1327cc, 4 xi lanh mang số hiệu Type 13. Một trong những thành công của ông là mẫu "Bébé" do Peugeot sản xuất trên thiết kế của ông. Trước thời chiến, ông cũng đã chế tạo 4 mẫu động cơ 1368cc, 8 van và 5027cc, 16 van. Năm 1913 ông chế tạo động cơ 2906cc, 8 xi lanh thẳng hàng. Năm 1921, sau chiến thắng lừng lẫy tại cuộc đua Grand Prix Brescia với 4 thứ hạng cao nhất đều thuộc về Bugatti, tất cả các động cơ 16 van được sản xuất sau này đều mang tên Brescia để kỷ niệm chiến thắng này. Vào năm 1924, Bugatti giới thiệu mẫu xe đua Model 35 với động cơ 2 lít 8 xi lanh và đây cũng là chiếc xe trang bị lazăng đúc đầu tiên . Với hơn 2000 chiến thắng chiếc Model 35 trở thành chiếc xe đua thành công nhất mọi thời đại. Năm 1926, Bugatti quyết định biến giấc mơ sản xuất một chiếc xe hơi sang trọng tột bậc trở thành hiện thực với mẫu xe Royales động cơ 8 máy, 12762cc, công suất 300 mã lực! Oái oăm thay, chiếc xe huyền thoại này ra đời không đúng lúc: ngay trước thời điểm thế giới bước vào cuộc Đại suy thoái. Chỉ có 3 chiếc xe đắt nhất trong lịch sử xe hơi thế giới là tìm được chủ nhân và chính chiếc xe huyền thoại này đã làm cho công ty của Bugatti khánh kiệt. Trong giai đoạn Đai suy thoái, măy mắn thay, Bugatti giành được hợp đồng xây dựng một loại tàu siêu tốc cho chính phủ Pháp, với những kinh nghiệm tích luỹ lâu năm ông không những đã làm hài lòng chính phủ mà còn giúp công ty của mình vượt qua cơn sóng gió. Ettore Bugatti cũng thiết kế thành công một chiếc ô tô chạy trên đường ray, chiếc Autorail. Ông còn thử sức sang cả lĩnh vực máy bay, song không thành công, Jean Bugatti, con trai ông tử nạn ngày 11/08/1939 khi đang lái thử chiếc xe đua Type 57 gần nhà máy Molsheim. Kể từ đó, xui xẻo bắt đầu ập đến. Thế chiến II đã tàn phá nhà máy ở Molsheim. Trong thời kỳ chiến tranh, Bugatti cũng xây dựng một nhà máy mới ở Levallois, Paris. Đến khi Thế chiến II kết thúc thì Bugatti lại lâm vào cảnh túng quẫn do không còn khả năng khôi phục lại sản xuất nhà máy Molsheim và vào ngày 21 tháng 8 năm 1947, ông qua đời tại Quân Y viện Paris do nhiễm bệnh phổi.
  • 40. Mặc dù chỉ có 7900 chiếc xe được sản xuất trong giai đoạn Bugatti điều hành công ty, nhưng vẫn có rất nhiều chiếc xe trong đó vẫn còn cho đến ngày nay- một minh chứng cho tài năng cũng như cống hiến của Bugatti cho lịch sử phát triển ô tô thế giới. Với những đóng góp to lớn của mình cho ngành công nghiệp xe hơi thế giới, Ettore Bugatti thật xứng đáng nhận danh hiệu "Nghệ nhân Chế tạo Xe hơi" - Automobile Artist.
  • 41. Thunderbird ra đời như thế nào? Trong nửa thế kỷ tồn tại và phát triển, Thunderbird (T-bird) được coi như một trong những chiếc xe biểu tượng cho ngành công nghiệp ôtô Mỹ. Nó cũng là yếu tố giúp Ford Motor Company tạo dựng và duy trì danh tiếng hàng đầu tại nước Mỹ. Sự ra đời của T-bird năm 1954 Khoảng thời gian Thế chiến II diễn ra, không hề có một sự sáng tạo nào ở các công ty ôtô. Đến cuối thập kỷ 40, nhu cầu về xe hơi bùng nổ và một trong những dòng xe được ưa chuộng nhất chính là những chiếc ôtô thể thao. Trở về từ châu Âu, những người lính Mỹ mang theo các mẫu xe thể thao danh tiếng của Italy, Đức, Pháp và Anh. Cùng lúc đó, môn đua ôtô trở nên phổ biến với các trường đua được xây mới, các cuộc đua được tổ chức khắp nơi. Cộng thêm tác động của một nền kinh tế phát triển mạnh, không có gì ngạc nhiên khi chiếc Thunderbird xuất hiện và lập tức gặt hái thành công dễ dàng tại Mỹ. Chiếc xe lần đầu tiên được trình làng vào năm 1954 tại Triển lãm ôtô Detroit. Đó là một chiếc roadster (xe hai chỗ mui trần) mang tiện nghi hiện đại, sự tiện lợi cũng như sức mạnh và khả năng điều khiển dễ dàng. Chỉ trong 10 ngày đầu tiên, Ford đã bán được 3.500 xe trong khi mục tiêu cả năm chỉ là 10.000 xe. Thunderbird thực sự là câu trả lời mà Ford dành cho chiếc roadster Corvette của Chevrolet. Nhưng trong khi chiếc Corvette chỉ trung thành với một kiểu dáng duy nhất thì Thunderbird đã xuất hiện với rất nhiều phiên bản khác nhau, từ những chiếc coupe hardtop (hardtop là thuật ngữ chỉ xe mui cứng không có thanh chống ở giữa) và xe 4 cửa. Dễ hiểu vì sao Thunderbird lại được yêu thích. Nó kết hợp được những phẩm chất của một chiếc xe thể thao sang trọng với những đặc điểm mà người Mỹ rất chuộng. Chỉ có hai chỗ ngồi nhưng T-bird năm 1972 là chiếc xe đầu tiên dài tới hơn 5 m, trong khi mẫu Thunderbird 2005 cũng có chiều dài hơn 4,7 m. Trong bất cứ giai đoạn nào, Thunderbird cũng luôn được trang bị những tiện nghi hàng đầu và động cơ mạnh mẽ nhất, ngay cả vào thời kỳ khủng hoảng dầu lửa thập kỷ 70. Có thể chia 50 năm của Thunderbird ra làm 4 giai đoạn, 1955-1963, 1964-1975, 1976-1997, 1998-2004. Một chiếc T-bird 1954
  • 42. Ngay từ những chiếc xe đầu tiên, nhà sản xuất đã lựa chọn lắp cho nó một động cơ V8. Từ 1958 đến 1960, xe Thunderbird gắn động cơ dung tích 5,8 lít, công suất 300 mã lực. Tuy vậy, khách hàng có thể lựa chọn chiếc xe với động cơ tới 7 lít và sức mạnh tương đương 350 mã lực. Năm 1961, lần đầu tiên Thunderbird có những cải tiến đáng kể về dáng vẻ bên ngoài, bỏ đi những vây nhọn phía trên hai đèn đuôi hình tròn, đèn pha vuông, và nhất là có thêm một phiên bản mui xếp (convertible). Từ năm 1961 đến 1963, trang bị tiêu chuẩn cho xe Thunderbird là động cơ V8 dung tích 6,4 lít, công suất 300-340 mã lực. Chiếc xe T-bird Turbo Mẫu xe sản xuất năm 1964 được biết đến với biệt danh “Jet Bird”. Khoảng cách trục được kéo dài tới 2.870 mm, khiến chiếc xe dài tới 5.207 mm. Điểm nổi bật của chiếc xe là mui ngắn hơn, trong khi nắp ca-pô và phần thùng sau được kéo dài, toàn bộ phần đuôi xe được thiết kế lại. Năm 1965, lần đầu tiên phanh đĩa trở thành trang bị tiêu chuẩn cho hai bánh trước. Mỗi năm, đội ngũ kỹ sư thiết kế của Ford đều thực hiện những công việc làm mới chiếc xe của họ, khi thì ở nội thất, khi thì vuốt lại các đường nét bên ngoài. Tuy nhiên, mẫu xe năm 1967 mới thực sự có nhiều điểm khác với những đời trước. Khung gầm được thiết kế hoàn toàn mới, phần mặt trước xe đơn giản hơn, đèn pha giấu bên dưới nắp ca-pô, chỉ nhô lên khi người điều khiển xe bấm nút khởi động. Vì thế cho đến năm 1971, mọi cải tiến chỉ là ở vài chi tiết tại mặt trước và sau xe. T-bird Super Coupe sản xuất năm 1994 Cho đến năm 1972, Thunderbird mở đầu cho sự xuất hiện của một thế hệ những xe sang trọng. Chỉ có duy nhất phiên bản hardtop 2 cửa, chiếc xe gây chú ý với kiểu dáng mạnh mẽ và nội thất sang trọng hơn hẳn so với quan niệm trước đây về một chiếc Thunderbird. Động cơ của xe nặng 2.085 kg này có dung tích 7 lít. Năm 1973, Thunderbird được lắp đèn pha kép ở mỗi bên. Chiếc xe năm 1976 có thể coi là chiếc Thunderbird lớn nhất và sang trọng nhất. Nhưng dường như điều đó không mang lại nhiều hiệu quả về mặt kinh tế nên ở phiên bản ra sau đó, nhà sản xuất đã thu hẹp các kích thước của xe lại, dù toàn bộ tiện nghi không thay đổi, nhờ thế giảm được 450 kg trọng lượng. Thân xe Thunderbird 1980 được chuyển thành dạng unibody (gồm các T-bird Turbo Coupe T-bird turbo
  • 43. tấm thép gắn với nhau), nhẹ hơn 360 kg so với xe trước đó, và cũng ngắn hơn 431 mm. Năm 1983 là một trong những năm thành công của Ford Thunderbird. Tháng 2 năm đó, chiếc coupe Thunderbird Turbo được trình làng và gây sự chú ý tại bất kỳ nơi đâu nó xuất hiện. Chiếc xe chỉ được trang bị một động cơ turbocharged 2,3 lít, hộp số sàn 5 cấp. Từ đầu thập kỷ 80, phần thùng sau xe dần được thu gọn lại nhưng kiểu nắp ca-pô vươn dài về phía trước đầy ngạo nghễ vẫn là kiểu cách mà người Mỹ ưa thích. Phiên bản 1989 gây nên một cơn sốt. Chiếc xe Super Coupe này có trục cơ sở dài hơn, bề ngang cũng rộng hơn, hệ thống treo độc lập phía sau, phanh đĩa ở cả 4 bánh với động cơ supercharged V6. T-bird 2002 đoạt giải của tạp chí Motor Trend Bước sang thập kỷ 90, lượng tiêu thụ xe Thunderbird chững dần lại và người ta bắt đầu xì xầm về việc Ford chuẩn bị thôi sản xuất chiếc roadster này sau 40 năm. Tin tức này càng được khẳng định vào năm 1998, khi Ford không còn trưng bày Thunderbird tại các showroom. Giới chuyên môn còn khẳng định sang thiên niên kỷ mới, sẽ có một mẫu xe hoàn toàn mới để thay thế. Tuy nhiên, phiên bản của năm 2002 một lần nữa giúp Thunderbird giành danh hiệu Xe của năm do tạp chí Motor Trend trao. Thành công này có thể dự báo được khi chiếc Thunderbird 2001 (xe concept) đã thu hút nhiều sự quan tâm khi được Ford giới thiệu tại khắp các triển lãm ôtô lớn trên thế giới. Dẫu vậy, đánh giá của các nhà chuyên môn không phải bao giờ cũng đúng với những nhu cầu của khách hàng. Có số lượng bán ra không nhỏ nhưng Thunderbird 2002 không đạt được mục tiêu mà hãng sản xuất đề ra. Ford hy vọng phiên bản 2005, tung ra vào nửa sau của năm 2006 thực sự là một chiếc xe để chúc mừng sinh nhật 50 tuổi của Thunderbird. T-bird 2002
  • 44. Cadillac ra đời như thế nào? Cái tên Cadillac Đầu thế kỷ 20 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của nền công nghiệp xe hơi thế giới khi Henry Leland sáng lập ra một công ty chế tạo xe hơi và đặt tên là Cadillac - theo tên nhà sáng lập ra Detrioit huyền thoại Antoine de la Mothe Cadillac. Để chào mừng sự kiện này, Herald đã thiết kế biểu trưng của công ty dựa trên huy hiệu của dòng họ Cadillac danh tiếng. Chiếc xe đầu tiên của công ty – Model A Runabout là chiếc xe đầu tiên vinh dự được mang biểu trưng này. Chinh phục thế giới Năm 1908, tức là chỉ vài năm sau khi sản xuất được động cơ 4 xi lanh đầu tiên, Cadillac lại khiến cả nền công nghiệp xe hơi sửng sốt khi trình diễn những bộ phận xe hơi dễ dàng lắp đặt ở nhiều vị trí khác nhau. Đây chính là sự kiến đặt nền móng cho sản xuất xe hơi trên quy mô lớn trên thế giới, đồng thời giúp Cadillac giành được danh hiệu cao quý Dewar Trophy của CLB Xe hơi Hoàng Gia - Royal Automobile Club (Anh). Cũng từ thời điểm này, biểu trưng của công ty tự hào được gắn thêm slogan “Tiêu chuẩn của Thế giới”. Tuy nhiên, Cadillac dường như đã cố tình đi ngược lại trật tự của công nghiệp xe hơi toàn cầu khi đặt ra mục tiêu “Chất lượng phải đi trước Số lượng” và dồn toàn bộ nguồn lực vào thiết kế một chiếc xe tuyệt vời nhất có thể. Năm 1910, Model Thirty của Cadillac là chiếc xe đầu tiên giã từ hệ thống khởi động bằng tay nhờ có hệ thống khởi động điện và bộ phận đánh lửa. Đây được coi là một phát minh tuyệt vời bởi không ít lái xe đã bị gãy tay hoặc vỡ xương hàm bởi hệ thống khởi động bằng tay. Một lần nữa danh hiệu Dewar Trophy lại được trao cho Detroit, và Cadillac trở thành nhà chế tạo xe hơi duy nhất đạt được danh hiệu cao quý này 2 lần. Đến năm 1915, Cadillac chuyển hướng sang động cơ V-8 làm mát bằng nước, mặc dù lúc bấy giờ động cơ 4 xi lanh vẫn được ưa chuộng. Trong thời kỳ Thế chiến lần thứ nhất (1916-1918), hệ thống làm mát nhiệt tĩnh và hệ thống đèn pha rất hiệu quả khi sử dụng ban đêm đã khiến Cadillac trở thành lựa chọn số 1 đối với quân đội Hoa Kỳ. Thập niên 20 càng khẳng định vị thế và sự tín nhiệm của giới xe hơi đối với Cadillac khi Cadillac giới thiệu chiếc cần gạt nước và kính chiếu hậu, đồng thời thoả mãn những khách hàng khó tính nhất bằng cách thay đổi thiết kế thân xe phong cách hơn và sang trọng hơn. Biểu trưng hiện nay của Cadillac Một mẫu xe Cadillac thập niên 30
  • 45. Năm 1927, lần đầu tiên mối liên hệ giữa hình dáng và chức năng của một chiếc xe được một nhà chế tạo xe hơi thực sự để mắt đến. Chiếc mui trần LaSalle trở thành chiếc xe đầu tiên được tạo dáng bởi một nhà thiết kế, chứ không phải bởi một kỹ sư ôtô như trước đây. Cuối thập niên 20, Cadillac đồng nghĩa với sự tạo dáng đẹp mắt và sang trọng. Cadillac đã khởi động thập niên 30 bằng việc ra mắt động cơ V-16 trang bị cho xe du lịch, cùng với nó là những mẫu biểu trưng khách nhau cho động cơ V-8, V-12 và V-16. Đến năm 1936, Cadillac đã sở hữu khoảng 68 mẫu thân xe khác nhau. Năm 1938, Cadillac đã giành thêm một cái “nhất” nữa trong lịch sử phát triển của mình bằng cách đưa từ “sunroof” (cửa sổ trời) vào từ điển Hoa Kỳ. Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 đã đem lại cho Cadillac không ít cơ hội được thể hiện tài năng và tiềm lực. Với đông cơ V-8 được dùng cho xe tăng M-5 và M-8 Howitzer, Cadillac tự hào giương cao khẩu hiệu “Nổi tiếng trong Thời bình – Khẳng định sự vượt trội trong Thời chiến”. Năm 1950 không chỉ đánh dấu doanh số 100.000 xe/ năm (gần gấp đôi so với trước Thế chiến II) mà còn là năm gặt hái của Cadillac trên đường đua 24 Hours of Le Mans - một trong những đường đua khốc liệt nhất trên thế giới - với các vị trí xếp hạng thứ 3, thứ 10 và 11. Thập kỷ 60 tiếp tục ghi dấu những thành tựu công nghệ của Cadillac với hệ thống phanh tự điều chỉnh, hệ thống điều hòa nhiệt độ, thông khí và làm nóng nhiệt tĩnh, tiếp theo đó là sự ra đời của bộ đèn pha bật tắt tự động, dây an toàn cho ghế trước, tấm sưởi điện cho các ghế ngồi và hệ thống âm thanh stereo. Cadillac chào mừng thập niên 70 với dây chuyền sản xuất xe du lịch lớn nhất thế giới – chiếc Eldorado 8.2L - 400hp. Từ năm 1975-1978, Cadillac tiếp tục dẫn đầu ngành công nghiệp xe hơi với những cải tiến không ngừng: hệ thống túi khí và thiết bị trung hòa khí thải tiên tiến. Bằng việc thiết kế lại những mẫu xe cổ điển của thập niên 30 và 40, ngay từ đầu những năm 1980, Cadillac đã dấy lên phong trào “hoài cổ” có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ ngành công nghiệp xe hơi thế giới. Không ngủ quên với những thành công liên tiếp, Cadillac tiếp tục đầu tư vào công nghệ và trở thành nhà chế tạo xe hơi đầu tiên sử dụng bộ vi xử lý tích hợp để kiểm soát hệ thống đánh lửa, nạp nhiên liệu và hoạt động tổng thể của cả chiếc xe. Năm 1984, Hệ thống Phân phối Chìa khóa vàng đã đặt ra những tiêu chuẩn mới cho việc bán xe, bao gồm việc tìm hiểu thông số kỹ thuật và tính năng Cadillac Sixty Special 1948
  • 46. của xe và chạy thử xe. Chính nhờ những nỗ lực này mà chỉ vài năm sau đó, Cadillac đã được J.D.Power bình chọn là nhà sản xuất xe hơi hàng đầu về việc thỏa mãn khách hàng mua xe. Năm 1992, chiếc Cadillac Seville vinh dự đạt danh hiệu “Chiếc xe của Năm” nhờ những tính năng tuyệt hảo như hệ thống kiểm soát độ bám đường của xe, hệ thống chống bó cứng phanh và hệ thống treo cảm biến tốc độ. Năm 2000-2001, Cadillac khẳng định lại đẳng cấp trên đường đua mà hãng đã lãng quên, nhờ việc tập trung vào những công nghệ tiên tiến nhất nhằm nâng cao khả năng vận hành của xe. Cadillac trở lại đường đua Presidental Inaugural Parade vào năm 2001. Đến nay, trải qua hơn 100 năm không ngừng nỗ lực và phát triển, Cadillac vẫn luôn tự hào với những danh hiệu “đầu tiên” và “số một” đã làm rạng danh dòng họ Cadillac mà nó mang tên. Pebble Beach Concours d'Elegance
  • 47. Mercedes-Benz nổi tiếng với những dòng xe nào? A-Class Chiếc Mercedes-Benz A-Class thuộc dòng supermini thường được biết đến với “nick-name” Baby Benz. Xuất hiện lần đầu vào năm 1997, sau 7 năm có mặt trên thị trường, số xe A-Class bán ra là 1,1 triệu chiếc. Thế hệ thứ 2 của A- Class được giới thiệu vào mùa thu 2004 được trang bị thêm nhiều công nghệ mới như hộp số tự động vô cấp Autotronic, hệ thống ổn định điện tử ESP và hệ thống treo mới làm tăng độ ổn định cho xe, đồng thời khắc phục khả năng bị lật xe khi chạy zíc zắc. Xe được giới thiệu với hai phiên bản thân xe 3 cửa, 5 cửa và 7 loại động cơ để lựa chọn (3 động cơ diesel và 4 xăng). C-Class Lần đầu tiên xuất xưởng vào tháng 6/1993, dòng C-Class được coi là một trong những chiếc xe Mercedes-Benz có giá “dễ chịu” nhất. Phiên bản thứ hai của dòng xe này được giới thiệu ra thị trường vào tháng 7/ 2000 (hiện đã sản xuất được trên 1,5 triệu chiếc) và người tiêu dùng trên toàn thế giới đang đón chờ phiên bản thứ 3 của C-Class - được thông báo là sẽ xuất hiện vào năm 2007 này. Những yếu tố làm nên thành công của chiếc xe là công nghệ cao kết hợp với nhu cầu sử dụng đa dạng. Chiếc xe mới của năm 2005 được trang bị thêm một số công nghệ mới như sơn chống trầy xước sử dụng công nghệ Nano, đèn Bi-xenon với hướng chiếu sáng thay đổi theo góc lái, hệ thống truyền động 4 bánh 4Matic… E-Class E trong E-Class là từ viết tắt của “Einspritzung”, một từ tiếng Đức có nghĩa là “hệ thống phun nhiên liệu”. Hệ thống này đã từng được coi là một trong những thành tựu mới của ngành công nghiệp xe hơi thập niên 50. Mercedes-Benz E- Class là một chiếc xe hạng sang hiện được giới thiệu với hai phiên bản sedan 4 cửa và estate 5 cửa được trang bị động cơ xăng và diesel (tùy phiên bản), động cơ 4 xi-lanh thẳng hàng cho đến V8, 3 kiểu hộp số (số tay 6 cấp, tự động 5 cấp và tự động 7 cấp 7G- Tronic). Một số công nghệ nổi bật trên chiếc E-class là hệ thống treo khí nén Airmatic DC (tuỳ chọn), phanh điện thuỷ lực SBC, Cruiser Control Distronic, điều hoà 4 vùng Thermotronic… E-Class cũng là dòng xe bán chạy nhất của Mercedes-Benz trên toàn thế giới nhờ sự đa dụng của nó: nếu ở một số quốc gia dòng E-Class được coi là những chiếc xe sang trọng thì ở một số nơi khác, nó lại được một số công ty taxi khai thác (Đức, Bồ Đào Nha, Singapore). "Baby Benz" E-Class