Sử dụng hợp lý (fair use) tác phẩm của người khác, hay các trường hợp sử dụng tác phẩm không phải xin phép và cũng không phải trả tiền nhuận bút hoặc thù lao, hay các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm bản quyền là nội dung được thiết lập trong pháp luật về sở hữu trí tuệ (SHTT) của nhiều nước, theo đó, cho phép bên thứ ba sử dụng tác phẩm có bản quyền của người khác mà không cần phải xin phép trong một số trường hợp nhất định. Nhưng cần nhớ rằng để được hưởng các ngoại lệ ấy, chủ thể phải tuân thủ một số điều kiện nhất định. Điều này có nghĩa rằng, dù cho hành vi sử dụng tác phẩm thuộc các trường hợp ngoạii lệ không xâm phạm quyền tác giả, chưa chắc hành vi đó đã được miễn trừ trách nhiệm.
Ứng phó với cáo buộc xâm phạm sáng chế tại Việt Nam như thế nào.pdfKENFOX IP & Law Office
Khả năng bị cáo buộc xâm phạm sáng chế luôn là mối đe dọa cho các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam. Việc cáo buộc thuần túy cũng có thể gây hoang mang, lo lắng cho người bị cáo buộc vi phạm, những người có thể phải đối mặt với một loạt các hậu quả tiêu cực như bị tịch thu sản phẩm, kiện cáo, bồi thường thiệt hại hay sự tấn công của truyền thông. Để giảm thiểu những rủi ro này, bên bị cáo buộc vi phạm thường áp dụng nhiều hành động khác nhau, chẳng hạn như chấp nhận cáo buộc, ký vào thư cam kết, loại bỏ các sản phẩm vi phạm hoặc đàm phán để xin giấy phép chuyển giao quyền sử dụng sáng chế. Tuy nhiên, việc vội vàng chấp nhận yêu cầu của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) sau khi bị cáo buộc vi phạm có thể dẫn đến rủi ro pháp lý lớn hơn. Bất kỳ ai, dù là nguyên đơn hay bị đơn, thì quyền và lợi ích của họ đều phải được bảo vệ miễn rằng các quyền ấy là chính đáng và hợp pháp. Trong nhiều trường hợp, bị đơn hoặc cá nhân bị cáo buộc không hẳn đã là người vi phạm. Khi bị cáo buộc xâm phạm sáng chế, điều quan trọng là phải giữ bình tĩnh. Cần nhớ rằng, pháp luật về SHTT của Việt Nam trao cho chủ thể quyền sáng chế độc quyền khai thác, sử dụng sáng chế, tiến hành các hành động pháp lý chống lại các hành vi xâm phạm, nhưng không vì thế làm mất đi quyền tự bảo vệ, quyền được biện hộ của tổ chức, cá nhân bị cáo buộc. Bài viết này sẽ cung cấp một số khuyến nghị cho người bị cáo buộc xâm phạm sáng chế tại Việt Nam để họ bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình.
As businesses continue to operate in Vietnam, the possibility of being accused of patent infringement is a looming threat. The mere accusation can cause uncertainty and worry for alleged infringers, who may face a range of negative consequences such as product seizures, lawsuits, and negative media attention. To mitigate these risks, various approaches can be taken, such as accepting the allegation, signing an undertaking letter, removing infringing products, or negotiating for a license. However, hastily accepting an IPR holder's request after an infringement accusation can result in greater legal risks. Anyone, whether a plaintiff or a defendant, should have their true rights and interests protected as long as they are just and legitimate. In many instances, the defendant or accused individual turns out to be not the perpetrator. When accused of patent infringement, it is critical to maintain your composure. Remember, Vietnam's IP law awards patent holders the exclusive right to profit and utilize inventions, to sue others for infringement, but not because of these privileges does it deprive an accused organization or individual of the right to self-defense, or the right to be defended. This article will explore the options for an alleged infringer in Vietnam and provide guidance on how to respond to such allegations while protecting their legal position.
Giám sát hải quan để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Lào – Những điều cần biế...KENFOX IP & Law Office
Giám sát hải quan, còn được gọi là đăng ký hải quan hoặc theo dõi hải quan hoặc giám sát hải quan, là một thủ tục cho phép chủ sở hữu nhãn hiệu yêu cầu cơ quan hải quan giám sát hàng nhập khẩu mang nhãn hiệu vi phạm hoặc giả mạo được nhập khẩu vào một quốc gia. Giám sát hải quan nhằm mục đích ngăn chặn hàng giả xâm nhập thị trường và bảo vệ quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu.
Giám sát hải quan tại Lào có thể là một công cụ hiệu quả để chủ sở hữu nhãn hiệu phát hiện và ngăn chặn việc nhập khẩu hàng hóa có chứa nhãn hiệu giả mạo. Tuy nhiên, pháp luật Lào không quy định cụ thể về việc hàng hóa “xuất khẩu” vi phạm có bị cơ quan chức năng Lào áp dụng chế tài nào hay không.
Bằng cách ghi nhận nhãn hiệu đã đăng ký với Cục Hải quan Lào, chủ sở hữu có thể cung cấp cho cơ quan hải quan thông tin về nhãn hiệu đã đăng ký của mình, giúp họ xác định và thu giữ hàng giả có dấu hiệu vi phạm nhãn hiệu.
Để đăng ký ghi nhận nhãn hiệu với Cục Hải quan Lào, chủ sở hữu nhãn hiệu phải nộp đơn đăng ký cùng với các tài liệu và lệ phí cần thiết. Đơn đăng ký phải chứa thông tin về nhãn hiệu, chẳng hạn như chủ sở hữu, số đăng ký và mô tả chi tiết về hàng hóa hoặc dịch vụ mà nhãn hiệu được sử dụng.
Customs recordal for IPR protection in Laos – What you must know .pdfKENFOX IP & Law Office
Customs recordal, also known as customs registration or customs watch or customs supervision, is a procedure that allows trademark owners to request customs authorities to monitor imports bearing infringing or counterfeit trademarks to be imported into a country. Customs recordal aims to prevent the entry of counterfeit goods into the market and protect the trademark owner’s rights.
Customs recordal in Laos can be an effective tool for trademark owners to detect and prevent the importation of trademarked counterfeit goods. However, it is not explicitly provided under the Laos laws on whether infringing goods for export are subject to any penalties imposed by the Laos authorities or not.
By recording a registered trademark with the Laos Customs Department, the owner can provide customs officials with information about his registered trademarks, enabling them to identify and seize counterfeit goods that infringe on his trademark.
Tính liên quan của hàng hóadịch vụ có ý nghĩa như thế nào đối với việc đăng k...KENFOX IP & Law Office
Bản chất của hàng hóa hoặc dịch vụ là một trong hai yếu tố tiên quyết (cùng với mẫu nhãn hiệu) trong việc xác định khả năng đăng ký của nhãn hiệu tại Việt Nam. Trước khi nộp đơn đăng ký nhãn hiệu, việc xem xét các hàng hóa hoặc dịch vụ mà nhãn hiệu được sử dụng có ý nghĩa quan trọng. Thông qua một trường hợp thực tế mà KENFOX IP & Law Office đã thành công trong việc đảo ngược thông báo từ chối đăng ký nhãn hiệu, bài viết này cung cấp cách hiểu về tính liên quan của hàng hóa/dịch vụ và tầm quan trọng của nó trong quá trình đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam. Các yếu tố quyết định liệu hai hàng hóa hoặc dịch vụ có được coi là liên quan với nhau hay không và cách thức áp dụng các yếu tố này trong thực tế cũng sẽ được bàn luận chi tiết..
Bối cảnh
Nhiều nhãn hiệu xin đăng ký tại Việt Nam đã bị từ chối bảo hộ do bị cho là tương tự nhau xét về nhãn hiệu và hàng hóa/dịch vụ đi kèm. Mặc dù không quá phức tạp để xác định liệu nhãn hiệu nộp sau có tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu có trước hay không, nhưng việc phân tích tính tương tự của hàng hóa/dịch vụ đi kèm với các nhãn hiệu này đòi hỏi cách đánh giá cẩn trọng. Vì vậy, các luật sư nhãn hiệu có kinh nghiệm sẽ ưu tiên chứng minh tính liên quan của hàng hóa/dịch vụ mang các nhãn hiệu được xem xét để vượt qua các từ chối tạm thời đối với nhãn hiệu xin đăng ký mà thoạt đầu nhìn có vẻ khá tương tự với nhãn hiệu có trước. Để minh họa cho điều này, vui lòng xem vụ việc liên quan đến nhãn hiệu bị Cục Sở hữu Trí tuệ (Cục SHT) từ chối với các chi tiết cụ thể dưới đây:
Giám định sở hữu trí tuệ và giải quyết tranh chấp tại Việt Nam Vai trò và số ...KENFOX IP & Law Office
Viện Khoa học Sở hữu Trí tuệ Việt Nam (Viện KHSHTT) là cơ quan nghiên cứu chuyên ngành trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Viện KHSHTT là cung cấp ý kiến và đánh giá chuyên môn liên quan đến các vụ việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Đặc biệt, các ý kiến chuyên môn/giám định của Viện KHSHTT tập trung vào các đối tượng sở hữu công nghiệp như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế mạch kín bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệ u, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý.
Là một tổ chức nghiên cứu chuyên ngành tại Việt Nam, Viện KHSHTT cung cấp ý kiến chuyên môn, kết luận giám định cho các bên liên quan như Cơ quan thực thi pháp luật Việt Nam, chủ sở hữu quyền SHTT, và người bị cáo buộc vi phạm.
Interim guidance for handling IP-related applications under the Amended IP La...KENFOX IP & Law Office
The Amended Intellectual Property Law 2022 (“Amended IP Law 2022” or “the prevailing law”) has been in effect since 1 January 2023, offering the expected benefits of of comprehensiveness and harmonization. This Amended IP Law 2022 promises to be a helpful tool for IPR holders and practitioners, with more than 100 amended and added articles covering a wide range of IP subject matters, including inventions, designs, trademarks and copyrights. As a matter of principle, following the amendments made to a law in Vietnam, pertinent sub-law documents such as government decrees and ministerial circulars need to be amended or replaced in order to provide sufficient regulations and guidelines for the effective implementation of the promulgated amendments.
The Intellectual Property Office of Vietnam (IP VIETNAM) has issued Notice No. 1029/TB-SHTT dated 14 March 2023 in order to provide IPR holders with a clear understanding of IP-related applications and requests pending the revision and publication of relevant decrees and circulars. The Notice outlines the procedures of handling certain IP-related applications and requests following the implementation of the Amended IP Law 2022. KENFOX IP & Law Office would like to keep you informed of the key regulations outlined in IP VIETNAM's Notice 1029/TB-SHTT.
Các hướng dẫn xử lý đơn đăng ký SHCN trong giai đoạn chuyển tiếp theo Luật SH...KENFOX IP & Law Office
Đồng bộ hơn, toàn diện hơn, hệ thống hóa hơn là những ưu điểm được trông đợi và kỳ vọng khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022 (“Luật SHTT sửa đổi 2022” hoặc “Luật SHTT hiện hành”) có hiệu lực từ 1/1/2023 với hơn 100 điều được sửa đổi, bổ sung trải rộng các đối tượng Sở hữu trí tuệ như sáng chế, kiểu dáng, nhãn hiệu, và quyền tác giả. Trên thực tế, sau khi sửa đổi luật ở Việt Nam, các văn bản dưới luật có liên quan như Nghị định của Chính phủ và Thông tư của các Bộ ban ngành cần phải được sửa đổi hoặc thay thế tương ứng nhằm cung cấp đầy đủ các quy định và các hướng dẫn để thực hiện hiệu quả các sửa đổi của luật.
Ứng phó với cáo buộc xâm phạm sáng chế tại Việt Nam như thế nào.pdfKENFOX IP & Law Office
Khả năng bị cáo buộc xâm phạm sáng chế luôn là mối đe dọa cho các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam. Việc cáo buộc thuần túy cũng có thể gây hoang mang, lo lắng cho người bị cáo buộc vi phạm, những người có thể phải đối mặt với một loạt các hậu quả tiêu cực như bị tịch thu sản phẩm, kiện cáo, bồi thường thiệt hại hay sự tấn công của truyền thông. Để giảm thiểu những rủi ro này, bên bị cáo buộc vi phạm thường áp dụng nhiều hành động khác nhau, chẳng hạn như chấp nhận cáo buộc, ký vào thư cam kết, loại bỏ các sản phẩm vi phạm hoặc đàm phán để xin giấy phép chuyển giao quyền sử dụng sáng chế. Tuy nhiên, việc vội vàng chấp nhận yêu cầu của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) sau khi bị cáo buộc vi phạm có thể dẫn đến rủi ro pháp lý lớn hơn. Bất kỳ ai, dù là nguyên đơn hay bị đơn, thì quyền và lợi ích của họ đều phải được bảo vệ miễn rằng các quyền ấy là chính đáng và hợp pháp. Trong nhiều trường hợp, bị đơn hoặc cá nhân bị cáo buộc không hẳn đã là người vi phạm. Khi bị cáo buộc xâm phạm sáng chế, điều quan trọng là phải giữ bình tĩnh. Cần nhớ rằng, pháp luật về SHTT của Việt Nam trao cho chủ thể quyền sáng chế độc quyền khai thác, sử dụng sáng chế, tiến hành các hành động pháp lý chống lại các hành vi xâm phạm, nhưng không vì thế làm mất đi quyền tự bảo vệ, quyền được biện hộ của tổ chức, cá nhân bị cáo buộc. Bài viết này sẽ cung cấp một số khuyến nghị cho người bị cáo buộc xâm phạm sáng chế tại Việt Nam để họ bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình.
As businesses continue to operate in Vietnam, the possibility of being accused of patent infringement is a looming threat. The mere accusation can cause uncertainty and worry for alleged infringers, who may face a range of negative consequences such as product seizures, lawsuits, and negative media attention. To mitigate these risks, various approaches can be taken, such as accepting the allegation, signing an undertaking letter, removing infringing products, or negotiating for a license. However, hastily accepting an IPR holder's request after an infringement accusation can result in greater legal risks. Anyone, whether a plaintiff or a defendant, should have their true rights and interests protected as long as they are just and legitimate. In many instances, the defendant or accused individual turns out to be not the perpetrator. When accused of patent infringement, it is critical to maintain your composure. Remember, Vietnam's IP law awards patent holders the exclusive right to profit and utilize inventions, to sue others for infringement, but not because of these privileges does it deprive an accused organization or individual of the right to self-defense, or the right to be defended. This article will explore the options for an alleged infringer in Vietnam and provide guidance on how to respond to such allegations while protecting their legal position.
Giám sát hải quan để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Lào – Những điều cần biế...KENFOX IP & Law Office
Giám sát hải quan, còn được gọi là đăng ký hải quan hoặc theo dõi hải quan hoặc giám sát hải quan, là một thủ tục cho phép chủ sở hữu nhãn hiệu yêu cầu cơ quan hải quan giám sát hàng nhập khẩu mang nhãn hiệu vi phạm hoặc giả mạo được nhập khẩu vào một quốc gia. Giám sát hải quan nhằm mục đích ngăn chặn hàng giả xâm nhập thị trường và bảo vệ quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu.
Giám sát hải quan tại Lào có thể là một công cụ hiệu quả để chủ sở hữu nhãn hiệu phát hiện và ngăn chặn việc nhập khẩu hàng hóa có chứa nhãn hiệu giả mạo. Tuy nhiên, pháp luật Lào không quy định cụ thể về việc hàng hóa “xuất khẩu” vi phạm có bị cơ quan chức năng Lào áp dụng chế tài nào hay không.
Bằng cách ghi nhận nhãn hiệu đã đăng ký với Cục Hải quan Lào, chủ sở hữu có thể cung cấp cho cơ quan hải quan thông tin về nhãn hiệu đã đăng ký của mình, giúp họ xác định và thu giữ hàng giả có dấu hiệu vi phạm nhãn hiệu.
Để đăng ký ghi nhận nhãn hiệu với Cục Hải quan Lào, chủ sở hữu nhãn hiệu phải nộp đơn đăng ký cùng với các tài liệu và lệ phí cần thiết. Đơn đăng ký phải chứa thông tin về nhãn hiệu, chẳng hạn như chủ sở hữu, số đăng ký và mô tả chi tiết về hàng hóa hoặc dịch vụ mà nhãn hiệu được sử dụng.
Customs recordal for IPR protection in Laos – What you must know .pdfKENFOX IP & Law Office
Customs recordal, also known as customs registration or customs watch or customs supervision, is a procedure that allows trademark owners to request customs authorities to monitor imports bearing infringing or counterfeit trademarks to be imported into a country. Customs recordal aims to prevent the entry of counterfeit goods into the market and protect the trademark owner’s rights.
Customs recordal in Laos can be an effective tool for trademark owners to detect and prevent the importation of trademarked counterfeit goods. However, it is not explicitly provided under the Laos laws on whether infringing goods for export are subject to any penalties imposed by the Laos authorities or not.
By recording a registered trademark with the Laos Customs Department, the owner can provide customs officials with information about his registered trademarks, enabling them to identify and seize counterfeit goods that infringe on his trademark.
Tính liên quan của hàng hóadịch vụ có ý nghĩa như thế nào đối với việc đăng k...KENFOX IP & Law Office
Bản chất của hàng hóa hoặc dịch vụ là một trong hai yếu tố tiên quyết (cùng với mẫu nhãn hiệu) trong việc xác định khả năng đăng ký của nhãn hiệu tại Việt Nam. Trước khi nộp đơn đăng ký nhãn hiệu, việc xem xét các hàng hóa hoặc dịch vụ mà nhãn hiệu được sử dụng có ý nghĩa quan trọng. Thông qua một trường hợp thực tế mà KENFOX IP & Law Office đã thành công trong việc đảo ngược thông báo từ chối đăng ký nhãn hiệu, bài viết này cung cấp cách hiểu về tính liên quan của hàng hóa/dịch vụ và tầm quan trọng của nó trong quá trình đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam. Các yếu tố quyết định liệu hai hàng hóa hoặc dịch vụ có được coi là liên quan với nhau hay không và cách thức áp dụng các yếu tố này trong thực tế cũng sẽ được bàn luận chi tiết..
Bối cảnh
Nhiều nhãn hiệu xin đăng ký tại Việt Nam đã bị từ chối bảo hộ do bị cho là tương tự nhau xét về nhãn hiệu và hàng hóa/dịch vụ đi kèm. Mặc dù không quá phức tạp để xác định liệu nhãn hiệu nộp sau có tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu có trước hay không, nhưng việc phân tích tính tương tự của hàng hóa/dịch vụ đi kèm với các nhãn hiệu này đòi hỏi cách đánh giá cẩn trọng. Vì vậy, các luật sư nhãn hiệu có kinh nghiệm sẽ ưu tiên chứng minh tính liên quan của hàng hóa/dịch vụ mang các nhãn hiệu được xem xét để vượt qua các từ chối tạm thời đối với nhãn hiệu xin đăng ký mà thoạt đầu nhìn có vẻ khá tương tự với nhãn hiệu có trước. Để minh họa cho điều này, vui lòng xem vụ việc liên quan đến nhãn hiệu bị Cục Sở hữu Trí tuệ (Cục SHT) từ chối với các chi tiết cụ thể dưới đây:
Giám định sở hữu trí tuệ và giải quyết tranh chấp tại Việt Nam Vai trò và số ...KENFOX IP & Law Office
Viện Khoa học Sở hữu Trí tuệ Việt Nam (Viện KHSHTT) là cơ quan nghiên cứu chuyên ngành trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Viện KHSHTT là cung cấp ý kiến và đánh giá chuyên môn liên quan đến các vụ việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Đặc biệt, các ý kiến chuyên môn/giám định của Viện KHSHTT tập trung vào các đối tượng sở hữu công nghiệp như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế mạch kín bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệ u, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý.
Là một tổ chức nghiên cứu chuyên ngành tại Việt Nam, Viện KHSHTT cung cấp ý kiến chuyên môn, kết luận giám định cho các bên liên quan như Cơ quan thực thi pháp luật Việt Nam, chủ sở hữu quyền SHTT, và người bị cáo buộc vi phạm.
Interim guidance for handling IP-related applications under the Amended IP La...KENFOX IP & Law Office
The Amended Intellectual Property Law 2022 (“Amended IP Law 2022” or “the prevailing law”) has been in effect since 1 January 2023, offering the expected benefits of of comprehensiveness and harmonization. This Amended IP Law 2022 promises to be a helpful tool for IPR holders and practitioners, with more than 100 amended and added articles covering a wide range of IP subject matters, including inventions, designs, trademarks and copyrights. As a matter of principle, following the amendments made to a law in Vietnam, pertinent sub-law documents such as government decrees and ministerial circulars need to be amended or replaced in order to provide sufficient regulations and guidelines for the effective implementation of the promulgated amendments.
The Intellectual Property Office of Vietnam (IP VIETNAM) has issued Notice No. 1029/TB-SHTT dated 14 March 2023 in order to provide IPR holders with a clear understanding of IP-related applications and requests pending the revision and publication of relevant decrees and circulars. The Notice outlines the procedures of handling certain IP-related applications and requests following the implementation of the Amended IP Law 2022. KENFOX IP & Law Office would like to keep you informed of the key regulations outlined in IP VIETNAM's Notice 1029/TB-SHTT.
Các hướng dẫn xử lý đơn đăng ký SHCN trong giai đoạn chuyển tiếp theo Luật SH...KENFOX IP & Law Office
Đồng bộ hơn, toàn diện hơn, hệ thống hóa hơn là những ưu điểm được trông đợi và kỳ vọng khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022 (“Luật SHTT sửa đổi 2022” hoặc “Luật SHTT hiện hành”) có hiệu lực từ 1/1/2023 với hơn 100 điều được sửa đổi, bổ sung trải rộng các đối tượng Sở hữu trí tuệ như sáng chế, kiểu dáng, nhãn hiệu, và quyền tác giả. Trên thực tế, sau khi sửa đổi luật ở Việt Nam, các văn bản dưới luật có liên quan như Nghị định của Chính phủ và Thông tư của các Bộ ban ngành cần phải được sửa đổi hoặc thay thế tương ứng nhằm cung cấp đầy đủ các quy định và các hướng dẫn để thực hiện hiệu quả các sửa đổi của luật.
A co-owned patent arises when two or more parties jointly create an invention and seek to obtain patent protection for it. How if an invention is created by two parties, but just one party is named as inventor and owner while the other is only named as “inventor”? Can it cause any legal consequences? What can the other inventor do in such a case if the inventor who filed the patent application does not reach an amicable agreement on a co-owned patent? In recent news, the Intellectual Property Offices of Vietnam (IP VIETNAM) have been dealing with a case regarding “the right to file a patent application” in case of co-owned patent, highlighting the importance of understanding the legal requirements for patent filing and ownership. This article will delve into the specifics of this case and how it impacts intellectual property rights in Vietnam.
Sáng chế đồng sở hữu phát sinh khi hai hoặc nhiều bên cùng nhau tạo ra một sáng chế và thực hiện các thủ tục pháp lý để bảo hộ sáng chế đó. Sẽ thế nào nếu một sáng chế được tạo ra bởi hai bên, nhưng chỉ một bên đứng tên là “tác giả sáng chế” kiêm “chủ sở hữu sáng chế”, còn bên kia chỉ đứng tên là “tác giả sáng chế”? Điều này có gây ra hậu quả pháp lý nào không? Tác giả sáng chế có thể làm gì trong trường hợp như vậy nếu tác giả sáng chế kia đã nộp đơn đăng ký bằng sáng chế mà chưa đạt được thỏa thuận về việc đồng sở hữu sáng chế? Mới đây, Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam (Cục SHTT) đã giải quyết một vụ việc liên quan đến “quyền nộp đơn đăng ký sáng chế” trong trường hợp đồng sở hữu sáng chế. Vụ việc nêu bật tầm quan trọng của việc nắm rõ các yêu cầu pháp lý đối với việc nộp đơn đăng ký sáng chế và quyền sở hữu sáng chế. Bài viết này sẽ đi sâu vào các chi tiết cụ thể của vụ việc và tác động của nó đến quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam.
Bulletin ASPEC Programme – an avenue to expedite patent granting in Vietnam a...KENFOX IP & Law Office
The ASEAN Patent Examination Cooperation (ASPEC) program is a regional patent cooperation program in Southeast Asia that allows patent applicants to request accelerated patent examination in participating ASEAN member states (“AMS”). It aims to improve the efficiency and quality of patent examination among participating ASEAN member state's intellectual property Offices (“AMS IP Offices”) by sharing search and examination (S&E) results.
Under the ASPEC program, patent applicants can submit a request for accelerated examination of a patent application in a participating AMS IP Office (“second IP Office”) based on a S&E reports issued by another participating AMS IP Office (“first IP Office”) on the corresponding application. The program aims to improve the efficiency and quality of patent examination in the region by facilitating the sharing of patent S&E results among participating AMS IP Offices. The ASPEC program is open to patent applications filed in any of the participating ASEAN member states, which include Brunei Darussalam, Cambodia, Indonesia, Lao PDR, Malaysia, the Philippines, Singapore, Thailand, and Vietnam.
Bắt nạt nhãn hiệu – Bảo vệ nhãn hiệu hay chiến thuật kinh doanh.pdfKENFOX IP & Law Office
Gần đây, trong một Báo cáo trước Quốc hội về các chiến thuật tố tụng nhãn hiệu, Văn phòng Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa kỳ (USPTO) đã định nghĩa thuật ngữ “Trademark Bullying” hay “Trademark Trolling” (“Bắt nạt nhãn hiệu” hay “Quấy rối nhãn hiệu”) là hành vi gây phiền phức của “chủ sở hữu sử dụng nhãn hiệu của mình để quấy rối và đe dọa một doanh nghiệp khác vượt quá những gì luật pháp cho phép”. Bắt chước phương thức hoạt động của các thực thể đe dọa yêu cầu thực thi quyền sáng chế và những kẻ bắt nạt bản quyền, một số chủ sở hữu nhãn hiệu đã áp dụng cách thức tố tụng này. Nói tóm lại, những kẻ bắt nạt nhãn hiệu – cả doanh nghiệp lớn và nhỏ – đều đòi quyền lợi vượt quá phạm vi bảo hộ nhãn hiệu theo quy định của Đạo luật Lanham thông qua việc gửi các Thư Khuyến Cáo nhằm mục đích đe dọa.
Understanding Trademark Infringement Laws in Vietnam - Roadblocks, Solutions.pdfKENFOX IP & Law Office
Despite selling their branded goods and services for decades in Vietnam, many businesses are at risk of losing their trademarks due to a lack of awareness and disregard for trademark registration. In most cases, trademarks are lost either because business owners are unaware of the need for registration, or because they prioritize market development over legal protection. Even those who do register their trademarks may face difficulties in enforcing them against infringing competitors. As a result, not a few businesses had to pay a high price for their negligence and lack of knowledge in the field of intellectual property. This article will explore the reasons behind trademark losses in Vietnam and offer guidance on how businesses can protect their valuable intellectual property assets.
Patents are widely regarded as a “crutial” instrument for intellectual property (IP) rights holders seeking to establish a unique market position for their patented products. Patents grant the owner exclusive rights to market their product, license their invention to third parties to recoup investments, and prevent competitors from infringing on their patent rights. Given the huge competitive advantages that the patent brings, it is not surprising that the occurrence of patent disputes is on the rise.
Cambodia’s lack of a customs recordal system means that the customs authorities have not yet received any requests for customs supervision regarding intellectual property rights (IPR) infringement. However, IPR holders still have options to engage Cambodian customs to enforce IPR infringement. One way is to file a request for recordal of exclusive distributorship.
Phản đối và hủy bỏ nhãn hiệu tại Việt Nam dựa trên bằng chứng về sử dụng rộng...KENFOX IP & Law Office
Phản đối và hủy bỏ nhãn hiệu được xem như biện pháp quan trọng cho chủ sở hữu nhãn hiệu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) của họ. Tại Việt Nam, chủ sở hữu nhãn hiệu đích thực có quyền sử dụng các bằng chứng về việc sử dụng rộng rãi nhãn hiệu của họ để phản đối hoặc hủy bỏ hiệu lực nhãn hiệu đã nộp đơn hoặc đăng ký của người khác. Thực tế cho thấy việc hiểu và nắm rõ cách Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam (Cục SHTT) đánh giá bằng chứng về việc sử dụng trước nhãn hiệu trong các vụ phản đối, hủy bỏ nhãn hiệu trên thực tế tại Việt Nam như thế nào có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và thiết lập các lập luận, chứng cứ thuyết phục để giành thắng lợi trong các tranh chấp nhãn hiệu tại Việt Nam.
Sàn giao dịch thương mại điện tử có phải chịu trách nhiệm pháp lý về xâm phạm...KENFOX IP & Law Office
Theo quyết định ngày 22 tháng 12 năm 2022, các vụ kiện C-148/21 và C-184/21 giữa Christian Louboutin và Amazon Europe Core Sàrl et đã được Tòa án Công lý Liên minh Châu Âu (“CJEU“) đưa ra phán quyết sơ bộ về yêu cầu của Tòa án Quận Luxembourg và Tòa Kinh tế Brussels (các Toà án chuyên trách), trong đó các Tòa án trên đã yêu cầu CJEU giải thích về việc liệu Điều 9(2)(a) của Quy định (EU) 2017/1001 (“Quy định về nhãn hiệu của Châu Âu”) cần phải được hiểu rằng bất kỳ ai điều hành một thị trường mua bán trực tuyến, ngoài bán các sản phẩm của mình, mà tích hợp hoạt động bán hàng của bên thứ ba thì có khả năng bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu đăng ký tại Liên minh Châu Âu (“EUTM“) hay không; mặc dù người bán sản phẩm giả mạo trên nền tảng trực tuyến là bên thứ ba.
Từ chối bảo hộ nhãn hiệu ở Việt Nam, Lào và Campuchia Ranh giới mong manh giữ...KENFOX IP & Law Office
Đăng ký nhãn hiệu là bước thiết yếu đối với bất kỳ doanh nghiệp nào muốn bảo vệ đặc tính thương hiệu và tài sản trí tuệ của mình. Tuy nhiên, quá trình đăng ký nhãn hiệu có thể gặp nhiều khó khăn, đặc biệt khi một nhãn hiệu rơi vào vùng xám để xác định đó là nhãn hiệu thuần túy mang tính “mô tả” hay chỉ mang tính “gợi ý”. Ở Việt Nam, Lào và Campuchia, cũng như ở nhiều quốc gia khác, nhãn hiệu được coi là “mô tả” thuần túy sẽ không được bảo hộ theo luật định, nhưng nếu nhãn hiệu chỉ mang tính “gợi ý”, nó hoàn toàn có thể được bảo hộ. Tuy nhiên, việc xác định xem một nhãn hiệu mang tính “mô tả” hay mang tính “gợi ý” có thể là một nhiệm vụ đầy thách thức và mang tính chủ quan, và thường có một ranh giới mong manh giữa hai loại nhãn hiệu này. Do đó, điều quan trọng là phải hiểu thực tiễn thẩm định, đánh giá các điều kiện bảo hộ nhãn hiệu và các yếu tố mà thẩm định viên xem xét khi đưa ra quyết định.
Dấu hiệu mang tính “gợi ý” hay nhãn hiệu mang tính “mô tả” ở Việt Nam, Lào, Campuchia
Dấu hiệu “gợi ý” là một loại nhãn hiệu mang tính chất “gợi ý” hoặc ám chỉ đến chất lượng hoặc đặc tính nào đó của hàng hóa/dịch vụ mà nó đại diện. Nhãn hiệu mang tính “gợi ý” là một loại nhãn hiệu có khả năng phân biệt cao hơn nhãn hiệu “mô tả”, nhưng kém phân biệt hơn so với nhãn hiệu tự tạo (mang tính ngẫu nhiên). Nhãn hiệu mang tính gợi ý ám chỉ, nhưng không mô tả trực tiếp, chất lượng hoặc đặc tính của sản phẩm hoặc dịch vụ được cung cấp. Dấu hiệu mang tính “gợi ý” đòi hỏi người tiêu dùng phải có trí tưởng tượng, hoặc óc sáng tạo ở mức độ nào đó để hiểu được mối liên hệ giữa dấu hiệu/nhãn hiệu và sản phẩm/dịch vụ. Ví dụ: nhãn hiệu "Greyhound" cho một công ty xe buýt mang tính gợi ý về tốc độ và hiệu quả, nhưng không mô tả trực tiếp sản phẩm hoặc dịch vụ được cung cấp.
How to Successfully Argue Wide Use Evidence in Trademark Opposition and Cance...KENFOX IP & Law Office
Trademark opposition and cancellation serve as crucial legal remedies for legitimate trademark owners to safeguard their intellectual property rights. In Vietnam, genuine trademark owners are entitled to employ their prior evidence of wide use to file a Notice of Opposition or a cancellation action against a trademark squatter. As such, it is critical to understand how National Office of Intellectual Property of Vietnam (IP VIETNAM) evaluates the evidence of prior use and the extent to which a mark must be used to succeed in an opposition or cancellation based on unregistered rights.
Protecting your IPR in Vietnam – A Guide to VIPRI's Services and Expertise.pdfKENFOX IP & Law Office
1. What services does Vietnam Intellectual Property Research Institute offer?
The Vietnam Intellectual Property Research Institute (VIPRI) is a research institution under the Ministry of Science and Technology that provides expert opinions on IP infringement cases concerning industrial property subject matters such as inventions, industrial designs, designs of semi-conducting closed circuits, trade secrets, marks, trade names, and geographical indications.
IPR holders who suspect that their IP rights have been violated may request VIPRI to provide assessments or expert opinions on the scope of protection of their IP rights, assess similarity, determine infringing elements, and determine damages. However, at present, VIPRI’s services are limited to providing assessments and opinions on inventions, industrial designs, geographical indications, and trademarks, due to limited human resources. It does not provide opinions on matters of unfair competition, trade name, or copyright.
Key takeaways from the recent trademark assessment conclusion issued by the V...KENFOX IP & Law Office
Background:
HOA SEN Vietnam Co., Ltd, a company engaged in design, art design, advertising, and communication.
In 2013, HOA SEN Company registered a mark including the verbal element “HOA SEN” in combination with a number of other elements (HOA SEN, device) at the Intellectual Property Office of Vietnam (“IP Vietnam”) for 04 classes of services including:
Trademark: HOA SEN, device
Class 35: Advertising services, presentation/display of goods on communication media for sales.
Class 40: Printing services.
Class 41: Television program production activities; photography; organizing cultural, artistic and sports events
Class 42: Print product design service
In 2017, the distributor and sales agent of HOA SEN Company, IDEA Vietnam Co., Ltd (“IDEA Company”), was discovered to have been using a logo featuring the verbal element “HOA SEN” on various platforms such as websites, Facebook, quotations, name cards, and brochures to promote their “calendar” products.
HOA SEN Company submitted a request to the Vietnam Intellectual Property Research Institute (VIPRI) to obtain an assessment conclusion on the use of the “HOA SEN, device” sign on IDEA VIETNAM’s business materials for the sale and advertising of printed calendars. The purpose of the request is to establish a basis for requesting the other Vietnamese enforcement agencies to handle the case. Specifically, HOA SEN Company seeks to determine whether the use of the “HOA SEN, device” sign in order to introduce, sell, offer for sale, advertise to sell printed calendar products infringes on their rights to the “HOA SEN, device” mark, which is protected for “advertising services, presentation/display of goods on communication media for sales” in Class 35.
Amending Patent Specifications In Vietnam - Best Practices for Applicants.pdfKENFOX IP & Law Office
Even after a patent specification has been filed to the Intellectual Property Office of Vietnam (IP VIETNAM), it may be amended at the applicant’s initiative (also known as voluntary amendment) or at IP VIETNAM’s request. If an amendment or supplement to a patent application expands the scope of the subject matter disclosed or stated in the application or alters the nature of the claimed subject matter stated in the application, there is a risk that the patented product or process could be invalidated at the request of a third party. To mitigate such legal risks associated with patents, it is essential to have a thorough understanding of Vietnam’s intellectual property laws concerning the amendment process during patent applications, particularly given the recent increase in patent infringement disputes in Vietnam.
Owning a trademark but cannot address trademark infringement in Vietnam, why.pdfKENFOX IP & Law Office
There are a number of reasons why Vietnamese businesses may lose their trademarks, despite the fact that they have been selling their branded goods and services for decades. Mostly, trademarks are lost for two reasons: (i) ignorance on the part of trademark owners and (ii) disregard of trademark registration for the goods/services they trade. Many firms are ignorant that they should and must register a trademark, while others prioritize business and market development over trademark registration. Even businesses that have registered their trademarks may be unable to take action against competitors who infringe their trademarks. This situation results in Vietnamese businesses paying a high price for their negligence, delay, and ignorance in the field of intellectual property.
Tranh chấp nhãn hiệu gần 3 thập kỷ - Bài học đắt giá cho doanh nghiệp.pdfKENFOX IP & Law Office
Phát triển thị trường, đưa sản phẩm nhanh chóng lên kệ, tiếp cận với công chúng để sản phẩm sớm được đón nhận là mong muốn thường trực của các nhà sản xuất. Trong không ít trường hợp, mong muốn này lấn át cả các nguyên tắc căn bản trong cách hành động của doanh nghiệp. Sẵn sàng thỏa hiệp, ký vào các giấy tờ cho đối tác/nhà phân phối mà không phân tích hết các viễn cảnh có thể xảy ra là căn nguyên đẩy chủ nhãn hiệu sa lầy vào các tranh chấp dai dẳng, mà khi trải qua nhiều cấp xét xử, chưa chắc đã giành lại quyền sở hữu của mình. Vụ tranh chấp nhãn hiệu “FARLIN” dưới đây dù diễn ra tại Philippines, nhưng có thể là bài học đắt giá cho mọi doanh nghiệp tại mọi khu vực pháp lý trên thế giới, ngay kể cả khi bạn kinh doanh tại Việt Nam, Trung Quốc, Hoa Kỳ hay Châu Âu.
Appropriating the trademark HWASUNG of Korean company to attack the genuine t...KENFOX IP & Law Office
The document discusses a dispute over the trademark "HWASUNG" between two Vietnamese companies, Thien Phu Company and SH-VINA Company. Thien Phu registered the trademark in 2005 but it was rejected by the Korean company Hwasung, who had previously used the trademark in Vietnam through distributors. In 2007, the intellectual property office canceled Thien Phu's registration, and in 2013 finally registered "SH-HWASUNG" to SH-VINA, recognizing them as the rightful owner.
Chiếm đoạt nhãn hiệu “HWASUNG” để tấn công chủ nhãn hiệu đích thực.pdfKENFOX IP & Law Office
HWASUNG là tên thương mại và nhãn hiệu của công ty HWASUNG sử dụng cho các sản phẩm dây điện. HWASUNG, một công ty Hàn Quốc cùng với 2 công ty Hàn Quốc khác là SEOUL và SIMEX đã góp vốn thành lập Công ty cáp điện SH-VINA, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài của Hàn Quốc, tại tỉnh Vĩnh Phúc.
Công ty Thiên Phú, một công ty đặt tại Hà Nội Việt Nam đăng ký nhãn hiệu HWASUNG cho các sản phẩm dây điện, cáp điện và các sản phẩm điện thuộc nhóm 09 và được cấp Giấy chứng nhận Đăng ký kinh doanh năm 2005. Ngay sau khi đăng ký thành công nhãn hiệu, Công ty Thiên Phú đã nộp đơn tới Đội quản lý thị trường của Hà Nội yêu cầu kiểm tra và thu giữ số lượng lớn hàng hoá gồm dây cáp điện và cáp điện thoại mang nhãn hiệu SH-HWASUNG của Công ty Duy Tân và Công ty Duy Yên. Đây là hai đại lý tiêu thụ lớn nhất của Công ty SH-VINA.
Hủy bỏ hiệu lực Văn bằng bảo hộ sáng chế tại Việt Nam như thế nào.pdfKENFOX IP & Law Office
Bằng sáng chế là một trong những vũ khí “sống còn” đối với các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) để giành được vị trí độc tôn trên thị trường đối với các sản phẩm được bảo hộ sáng chế. Bằng sáng chế trao cho chủ sở hữu quyền độc quyền thương mại hóa sản phẩm, quyền li-xăng sáng chế cho bên thứ ba để thu hồi vốn đầu tư, quyền ngăn chặn đối thủ cạnh tranh xâm phạm độc quyền sáng chế. Chính bởi lợi thế cạnh tranh rất lớn mà sáng chế mang lại, sự xuất hiện các tranh chấp sáng chế ngày càng gia tăng là điều hoàn toàn có thể dự đoán.
Sáng chế được cấp bằng độc quyền không có nghĩa là nó không có sai sót và mặc nhiên có hiệu lực. “Giả định về hiệu lực là điều cho phép chủ sở hữu bằng sáng chế kiện vi phạm, ít nhất là khi có cơ sở xác đáng để khẳng định rằng bị đơn vi phạm bằng sáng chế”. Trên thực tế, trong không ít các trường hợp, bằng sáng chế được cấp do thẩm định viên không thể tìm ra các giải pháp kỹ thuật tương đương/trùng lặp có trước để từ chối bảo hộ trên cơ sở sáng chế không đáp ứng điều kiện về tính mới.
Hủy bỏ hiệu lực Văn bằng bảo hộ sáng chế là thủ tục pháp lý được thiết lập trong luật SHTT ở hầu hết các quốc gia bảo hộ tài sản trí tuệ cho phép bên thứ ba nộp yêu cầu thách thức hiệu lực của bằng độc quyền sáng chế. Hủy bỏ hiệu lực Văn bằng bảo hộ sáng chế tại Việt Nam được thực hiện bằng việc nộp đơn yêu cầu hủy bỏ hiệu lực tới Cục SHTT Việt Nam, cung cấp các thông tin, tài liệu chứng minh và nộp các khoản phí theo quy định. Nhìn chung, hủy bỏ hiệu lực Văn bằng bảo hộ sáng chế tại Việt Nam thường diễn ra trong 2 bối cảnh: (i) đối thủ cạnh chủ động tấn công hiệu lực của Văn bằng bảo hộ sáng chế đang trong thời hạn hiệu lực để thương mại hóa sản phẩm một cách an toàn và (ii) bị đơn/bên bị cáo buộc xâm phạm muốn vô hiệu hóa bằng sáng chế để được miễn trừ trách nhiệm pháp lý khi chủ bằng sáng chế yêu cầu cơ quan thực thi xử lý hành vi xâm phạm sáng chế của bị đơn.
Geographical indications (GIs) are categorized as a type of industrial property right in Vietnam and protection of GIs are regulated under the Law on Intellectual Property. A GI identifies a product as originating from a specific geographical location and possessing unique qualities or characteristics that are attributable to that location. GI protection can help build confidence among customers by providing assurance of the product’s authenticity and quality, as well as its cultural and traditional value.
For producers, GI protection can enhance the reputation of their products and increase their market value, as customers are willing to pay a premium for products with a recognized GI status. This can lead to increased income and job opportunities for local producers, as well as support for the development and promotion of regional economies.
Moreover, GI protection can contribute to sustainable development by preserving traditional production methods and promoting environmental and social responsibility. By promoting the use of local resources and supporting traditional agricultural practices, GI protection can help to maintain the biodiversity and cultural heritage of the region.
Overall, GI protection is an important tool for promoting and preserving the unique cultural and traditional value of local products, while also providing economic benefits to producers and contributing to sustainable development.
A co-owned patent arises when two or more parties jointly create an invention and seek to obtain patent protection for it. How if an invention is created by two parties, but just one party is named as inventor and owner while the other is only named as “inventor”? Can it cause any legal consequences? What can the other inventor do in such a case if the inventor who filed the patent application does not reach an amicable agreement on a co-owned patent? In recent news, the Intellectual Property Offices of Vietnam (IP VIETNAM) have been dealing with a case regarding “the right to file a patent application” in case of co-owned patent, highlighting the importance of understanding the legal requirements for patent filing and ownership. This article will delve into the specifics of this case and how it impacts intellectual property rights in Vietnam.
Sáng chế đồng sở hữu phát sinh khi hai hoặc nhiều bên cùng nhau tạo ra một sáng chế và thực hiện các thủ tục pháp lý để bảo hộ sáng chế đó. Sẽ thế nào nếu một sáng chế được tạo ra bởi hai bên, nhưng chỉ một bên đứng tên là “tác giả sáng chế” kiêm “chủ sở hữu sáng chế”, còn bên kia chỉ đứng tên là “tác giả sáng chế”? Điều này có gây ra hậu quả pháp lý nào không? Tác giả sáng chế có thể làm gì trong trường hợp như vậy nếu tác giả sáng chế kia đã nộp đơn đăng ký bằng sáng chế mà chưa đạt được thỏa thuận về việc đồng sở hữu sáng chế? Mới đây, Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam (Cục SHTT) đã giải quyết một vụ việc liên quan đến “quyền nộp đơn đăng ký sáng chế” trong trường hợp đồng sở hữu sáng chế. Vụ việc nêu bật tầm quan trọng của việc nắm rõ các yêu cầu pháp lý đối với việc nộp đơn đăng ký sáng chế và quyền sở hữu sáng chế. Bài viết này sẽ đi sâu vào các chi tiết cụ thể của vụ việc và tác động của nó đến quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam.
Bulletin ASPEC Programme – an avenue to expedite patent granting in Vietnam a...KENFOX IP & Law Office
The ASEAN Patent Examination Cooperation (ASPEC) program is a regional patent cooperation program in Southeast Asia that allows patent applicants to request accelerated patent examination in participating ASEAN member states (“AMS”). It aims to improve the efficiency and quality of patent examination among participating ASEAN member state's intellectual property Offices (“AMS IP Offices”) by sharing search and examination (S&E) results.
Under the ASPEC program, patent applicants can submit a request for accelerated examination of a patent application in a participating AMS IP Office (“second IP Office”) based on a S&E reports issued by another participating AMS IP Office (“first IP Office”) on the corresponding application. The program aims to improve the efficiency and quality of patent examination in the region by facilitating the sharing of patent S&E results among participating AMS IP Offices. The ASPEC program is open to patent applications filed in any of the participating ASEAN member states, which include Brunei Darussalam, Cambodia, Indonesia, Lao PDR, Malaysia, the Philippines, Singapore, Thailand, and Vietnam.
Bắt nạt nhãn hiệu – Bảo vệ nhãn hiệu hay chiến thuật kinh doanh.pdfKENFOX IP & Law Office
Gần đây, trong một Báo cáo trước Quốc hội về các chiến thuật tố tụng nhãn hiệu, Văn phòng Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa kỳ (USPTO) đã định nghĩa thuật ngữ “Trademark Bullying” hay “Trademark Trolling” (“Bắt nạt nhãn hiệu” hay “Quấy rối nhãn hiệu”) là hành vi gây phiền phức của “chủ sở hữu sử dụng nhãn hiệu của mình để quấy rối và đe dọa một doanh nghiệp khác vượt quá những gì luật pháp cho phép”. Bắt chước phương thức hoạt động của các thực thể đe dọa yêu cầu thực thi quyền sáng chế và những kẻ bắt nạt bản quyền, một số chủ sở hữu nhãn hiệu đã áp dụng cách thức tố tụng này. Nói tóm lại, những kẻ bắt nạt nhãn hiệu – cả doanh nghiệp lớn và nhỏ – đều đòi quyền lợi vượt quá phạm vi bảo hộ nhãn hiệu theo quy định của Đạo luật Lanham thông qua việc gửi các Thư Khuyến Cáo nhằm mục đích đe dọa.
Understanding Trademark Infringement Laws in Vietnam - Roadblocks, Solutions.pdfKENFOX IP & Law Office
Despite selling their branded goods and services for decades in Vietnam, many businesses are at risk of losing their trademarks due to a lack of awareness and disregard for trademark registration. In most cases, trademarks are lost either because business owners are unaware of the need for registration, or because they prioritize market development over legal protection. Even those who do register their trademarks may face difficulties in enforcing them against infringing competitors. As a result, not a few businesses had to pay a high price for their negligence and lack of knowledge in the field of intellectual property. This article will explore the reasons behind trademark losses in Vietnam and offer guidance on how businesses can protect their valuable intellectual property assets.
Patents are widely regarded as a “crutial” instrument for intellectual property (IP) rights holders seeking to establish a unique market position for their patented products. Patents grant the owner exclusive rights to market their product, license their invention to third parties to recoup investments, and prevent competitors from infringing on their patent rights. Given the huge competitive advantages that the patent brings, it is not surprising that the occurrence of patent disputes is on the rise.
Cambodia’s lack of a customs recordal system means that the customs authorities have not yet received any requests for customs supervision regarding intellectual property rights (IPR) infringement. However, IPR holders still have options to engage Cambodian customs to enforce IPR infringement. One way is to file a request for recordal of exclusive distributorship.
Phản đối và hủy bỏ nhãn hiệu tại Việt Nam dựa trên bằng chứng về sử dụng rộng...KENFOX IP & Law Office
Phản đối và hủy bỏ nhãn hiệu được xem như biện pháp quan trọng cho chủ sở hữu nhãn hiệu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) của họ. Tại Việt Nam, chủ sở hữu nhãn hiệu đích thực có quyền sử dụng các bằng chứng về việc sử dụng rộng rãi nhãn hiệu của họ để phản đối hoặc hủy bỏ hiệu lực nhãn hiệu đã nộp đơn hoặc đăng ký của người khác. Thực tế cho thấy việc hiểu và nắm rõ cách Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam (Cục SHTT) đánh giá bằng chứng về việc sử dụng trước nhãn hiệu trong các vụ phản đối, hủy bỏ nhãn hiệu trên thực tế tại Việt Nam như thế nào có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và thiết lập các lập luận, chứng cứ thuyết phục để giành thắng lợi trong các tranh chấp nhãn hiệu tại Việt Nam.
Sàn giao dịch thương mại điện tử có phải chịu trách nhiệm pháp lý về xâm phạm...KENFOX IP & Law Office
Theo quyết định ngày 22 tháng 12 năm 2022, các vụ kiện C-148/21 và C-184/21 giữa Christian Louboutin và Amazon Europe Core Sàrl et đã được Tòa án Công lý Liên minh Châu Âu (“CJEU“) đưa ra phán quyết sơ bộ về yêu cầu của Tòa án Quận Luxembourg và Tòa Kinh tế Brussels (các Toà án chuyên trách), trong đó các Tòa án trên đã yêu cầu CJEU giải thích về việc liệu Điều 9(2)(a) của Quy định (EU) 2017/1001 (“Quy định về nhãn hiệu của Châu Âu”) cần phải được hiểu rằng bất kỳ ai điều hành một thị trường mua bán trực tuyến, ngoài bán các sản phẩm của mình, mà tích hợp hoạt động bán hàng của bên thứ ba thì có khả năng bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu đăng ký tại Liên minh Châu Âu (“EUTM“) hay không; mặc dù người bán sản phẩm giả mạo trên nền tảng trực tuyến là bên thứ ba.
Từ chối bảo hộ nhãn hiệu ở Việt Nam, Lào và Campuchia Ranh giới mong manh giữ...KENFOX IP & Law Office
Đăng ký nhãn hiệu là bước thiết yếu đối với bất kỳ doanh nghiệp nào muốn bảo vệ đặc tính thương hiệu và tài sản trí tuệ của mình. Tuy nhiên, quá trình đăng ký nhãn hiệu có thể gặp nhiều khó khăn, đặc biệt khi một nhãn hiệu rơi vào vùng xám để xác định đó là nhãn hiệu thuần túy mang tính “mô tả” hay chỉ mang tính “gợi ý”. Ở Việt Nam, Lào và Campuchia, cũng như ở nhiều quốc gia khác, nhãn hiệu được coi là “mô tả” thuần túy sẽ không được bảo hộ theo luật định, nhưng nếu nhãn hiệu chỉ mang tính “gợi ý”, nó hoàn toàn có thể được bảo hộ. Tuy nhiên, việc xác định xem một nhãn hiệu mang tính “mô tả” hay mang tính “gợi ý” có thể là một nhiệm vụ đầy thách thức và mang tính chủ quan, và thường có một ranh giới mong manh giữa hai loại nhãn hiệu này. Do đó, điều quan trọng là phải hiểu thực tiễn thẩm định, đánh giá các điều kiện bảo hộ nhãn hiệu và các yếu tố mà thẩm định viên xem xét khi đưa ra quyết định.
Dấu hiệu mang tính “gợi ý” hay nhãn hiệu mang tính “mô tả” ở Việt Nam, Lào, Campuchia
Dấu hiệu “gợi ý” là một loại nhãn hiệu mang tính chất “gợi ý” hoặc ám chỉ đến chất lượng hoặc đặc tính nào đó của hàng hóa/dịch vụ mà nó đại diện. Nhãn hiệu mang tính “gợi ý” là một loại nhãn hiệu có khả năng phân biệt cao hơn nhãn hiệu “mô tả”, nhưng kém phân biệt hơn so với nhãn hiệu tự tạo (mang tính ngẫu nhiên). Nhãn hiệu mang tính gợi ý ám chỉ, nhưng không mô tả trực tiếp, chất lượng hoặc đặc tính của sản phẩm hoặc dịch vụ được cung cấp. Dấu hiệu mang tính “gợi ý” đòi hỏi người tiêu dùng phải có trí tưởng tượng, hoặc óc sáng tạo ở mức độ nào đó để hiểu được mối liên hệ giữa dấu hiệu/nhãn hiệu và sản phẩm/dịch vụ. Ví dụ: nhãn hiệu "Greyhound" cho một công ty xe buýt mang tính gợi ý về tốc độ và hiệu quả, nhưng không mô tả trực tiếp sản phẩm hoặc dịch vụ được cung cấp.
How to Successfully Argue Wide Use Evidence in Trademark Opposition and Cance...KENFOX IP & Law Office
Trademark opposition and cancellation serve as crucial legal remedies for legitimate trademark owners to safeguard their intellectual property rights. In Vietnam, genuine trademark owners are entitled to employ their prior evidence of wide use to file a Notice of Opposition or a cancellation action against a trademark squatter. As such, it is critical to understand how National Office of Intellectual Property of Vietnam (IP VIETNAM) evaluates the evidence of prior use and the extent to which a mark must be used to succeed in an opposition or cancellation based on unregistered rights.
Protecting your IPR in Vietnam – A Guide to VIPRI's Services and Expertise.pdfKENFOX IP & Law Office
1. What services does Vietnam Intellectual Property Research Institute offer?
The Vietnam Intellectual Property Research Institute (VIPRI) is a research institution under the Ministry of Science and Technology that provides expert opinions on IP infringement cases concerning industrial property subject matters such as inventions, industrial designs, designs of semi-conducting closed circuits, trade secrets, marks, trade names, and geographical indications.
IPR holders who suspect that their IP rights have been violated may request VIPRI to provide assessments or expert opinions on the scope of protection of their IP rights, assess similarity, determine infringing elements, and determine damages. However, at present, VIPRI’s services are limited to providing assessments and opinions on inventions, industrial designs, geographical indications, and trademarks, due to limited human resources. It does not provide opinions on matters of unfair competition, trade name, or copyright.
Key takeaways from the recent trademark assessment conclusion issued by the V...KENFOX IP & Law Office
Background:
HOA SEN Vietnam Co., Ltd, a company engaged in design, art design, advertising, and communication.
In 2013, HOA SEN Company registered a mark including the verbal element “HOA SEN” in combination with a number of other elements (HOA SEN, device) at the Intellectual Property Office of Vietnam (“IP Vietnam”) for 04 classes of services including:
Trademark: HOA SEN, device
Class 35: Advertising services, presentation/display of goods on communication media for sales.
Class 40: Printing services.
Class 41: Television program production activities; photography; organizing cultural, artistic and sports events
Class 42: Print product design service
In 2017, the distributor and sales agent of HOA SEN Company, IDEA Vietnam Co., Ltd (“IDEA Company”), was discovered to have been using a logo featuring the verbal element “HOA SEN” on various platforms such as websites, Facebook, quotations, name cards, and brochures to promote their “calendar” products.
HOA SEN Company submitted a request to the Vietnam Intellectual Property Research Institute (VIPRI) to obtain an assessment conclusion on the use of the “HOA SEN, device” sign on IDEA VIETNAM’s business materials for the sale and advertising of printed calendars. The purpose of the request is to establish a basis for requesting the other Vietnamese enforcement agencies to handle the case. Specifically, HOA SEN Company seeks to determine whether the use of the “HOA SEN, device” sign in order to introduce, sell, offer for sale, advertise to sell printed calendar products infringes on their rights to the “HOA SEN, device” mark, which is protected for “advertising services, presentation/display of goods on communication media for sales” in Class 35.
Amending Patent Specifications In Vietnam - Best Practices for Applicants.pdfKENFOX IP & Law Office
Even after a patent specification has been filed to the Intellectual Property Office of Vietnam (IP VIETNAM), it may be amended at the applicant’s initiative (also known as voluntary amendment) or at IP VIETNAM’s request. If an amendment or supplement to a patent application expands the scope of the subject matter disclosed or stated in the application or alters the nature of the claimed subject matter stated in the application, there is a risk that the patented product or process could be invalidated at the request of a third party. To mitigate such legal risks associated with patents, it is essential to have a thorough understanding of Vietnam’s intellectual property laws concerning the amendment process during patent applications, particularly given the recent increase in patent infringement disputes in Vietnam.
Owning a trademark but cannot address trademark infringement in Vietnam, why.pdfKENFOX IP & Law Office
There are a number of reasons why Vietnamese businesses may lose their trademarks, despite the fact that they have been selling their branded goods and services for decades. Mostly, trademarks are lost for two reasons: (i) ignorance on the part of trademark owners and (ii) disregard of trademark registration for the goods/services they trade. Many firms are ignorant that they should and must register a trademark, while others prioritize business and market development over trademark registration. Even businesses that have registered their trademarks may be unable to take action against competitors who infringe their trademarks. This situation results in Vietnamese businesses paying a high price for their negligence, delay, and ignorance in the field of intellectual property.
Tranh chấp nhãn hiệu gần 3 thập kỷ - Bài học đắt giá cho doanh nghiệp.pdfKENFOX IP & Law Office
Phát triển thị trường, đưa sản phẩm nhanh chóng lên kệ, tiếp cận với công chúng để sản phẩm sớm được đón nhận là mong muốn thường trực của các nhà sản xuất. Trong không ít trường hợp, mong muốn này lấn át cả các nguyên tắc căn bản trong cách hành động của doanh nghiệp. Sẵn sàng thỏa hiệp, ký vào các giấy tờ cho đối tác/nhà phân phối mà không phân tích hết các viễn cảnh có thể xảy ra là căn nguyên đẩy chủ nhãn hiệu sa lầy vào các tranh chấp dai dẳng, mà khi trải qua nhiều cấp xét xử, chưa chắc đã giành lại quyền sở hữu của mình. Vụ tranh chấp nhãn hiệu “FARLIN” dưới đây dù diễn ra tại Philippines, nhưng có thể là bài học đắt giá cho mọi doanh nghiệp tại mọi khu vực pháp lý trên thế giới, ngay kể cả khi bạn kinh doanh tại Việt Nam, Trung Quốc, Hoa Kỳ hay Châu Âu.
Appropriating the trademark HWASUNG of Korean company to attack the genuine t...KENFOX IP & Law Office
The document discusses a dispute over the trademark "HWASUNG" between two Vietnamese companies, Thien Phu Company and SH-VINA Company. Thien Phu registered the trademark in 2005 but it was rejected by the Korean company Hwasung, who had previously used the trademark in Vietnam through distributors. In 2007, the intellectual property office canceled Thien Phu's registration, and in 2013 finally registered "SH-HWASUNG" to SH-VINA, recognizing them as the rightful owner.
Chiếm đoạt nhãn hiệu “HWASUNG” để tấn công chủ nhãn hiệu đích thực.pdfKENFOX IP & Law Office
HWASUNG là tên thương mại và nhãn hiệu của công ty HWASUNG sử dụng cho các sản phẩm dây điện. HWASUNG, một công ty Hàn Quốc cùng với 2 công ty Hàn Quốc khác là SEOUL và SIMEX đã góp vốn thành lập Công ty cáp điện SH-VINA, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài của Hàn Quốc, tại tỉnh Vĩnh Phúc.
Công ty Thiên Phú, một công ty đặt tại Hà Nội Việt Nam đăng ký nhãn hiệu HWASUNG cho các sản phẩm dây điện, cáp điện và các sản phẩm điện thuộc nhóm 09 và được cấp Giấy chứng nhận Đăng ký kinh doanh năm 2005. Ngay sau khi đăng ký thành công nhãn hiệu, Công ty Thiên Phú đã nộp đơn tới Đội quản lý thị trường của Hà Nội yêu cầu kiểm tra và thu giữ số lượng lớn hàng hoá gồm dây cáp điện và cáp điện thoại mang nhãn hiệu SH-HWASUNG của Công ty Duy Tân và Công ty Duy Yên. Đây là hai đại lý tiêu thụ lớn nhất của Công ty SH-VINA.
Hủy bỏ hiệu lực Văn bằng bảo hộ sáng chế tại Việt Nam như thế nào.pdfKENFOX IP & Law Office
Bằng sáng chế là một trong những vũ khí “sống còn” đối với các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) để giành được vị trí độc tôn trên thị trường đối với các sản phẩm được bảo hộ sáng chế. Bằng sáng chế trao cho chủ sở hữu quyền độc quyền thương mại hóa sản phẩm, quyền li-xăng sáng chế cho bên thứ ba để thu hồi vốn đầu tư, quyền ngăn chặn đối thủ cạnh tranh xâm phạm độc quyền sáng chế. Chính bởi lợi thế cạnh tranh rất lớn mà sáng chế mang lại, sự xuất hiện các tranh chấp sáng chế ngày càng gia tăng là điều hoàn toàn có thể dự đoán.
Sáng chế được cấp bằng độc quyền không có nghĩa là nó không có sai sót và mặc nhiên có hiệu lực. “Giả định về hiệu lực là điều cho phép chủ sở hữu bằng sáng chế kiện vi phạm, ít nhất là khi có cơ sở xác đáng để khẳng định rằng bị đơn vi phạm bằng sáng chế”. Trên thực tế, trong không ít các trường hợp, bằng sáng chế được cấp do thẩm định viên không thể tìm ra các giải pháp kỹ thuật tương đương/trùng lặp có trước để từ chối bảo hộ trên cơ sở sáng chế không đáp ứng điều kiện về tính mới.
Hủy bỏ hiệu lực Văn bằng bảo hộ sáng chế là thủ tục pháp lý được thiết lập trong luật SHTT ở hầu hết các quốc gia bảo hộ tài sản trí tuệ cho phép bên thứ ba nộp yêu cầu thách thức hiệu lực của bằng độc quyền sáng chế. Hủy bỏ hiệu lực Văn bằng bảo hộ sáng chế tại Việt Nam được thực hiện bằng việc nộp đơn yêu cầu hủy bỏ hiệu lực tới Cục SHTT Việt Nam, cung cấp các thông tin, tài liệu chứng minh và nộp các khoản phí theo quy định. Nhìn chung, hủy bỏ hiệu lực Văn bằng bảo hộ sáng chế tại Việt Nam thường diễn ra trong 2 bối cảnh: (i) đối thủ cạnh chủ động tấn công hiệu lực của Văn bằng bảo hộ sáng chế đang trong thời hạn hiệu lực để thương mại hóa sản phẩm một cách an toàn và (ii) bị đơn/bên bị cáo buộc xâm phạm muốn vô hiệu hóa bằng sáng chế để được miễn trừ trách nhiệm pháp lý khi chủ bằng sáng chế yêu cầu cơ quan thực thi xử lý hành vi xâm phạm sáng chế của bị đơn.
Geographical indications (GIs) are categorized as a type of industrial property right in Vietnam and protection of GIs are regulated under the Law on Intellectual Property. A GI identifies a product as originating from a specific geographical location and possessing unique qualities or characteristics that are attributable to that location. GI protection can help build confidence among customers by providing assurance of the product’s authenticity and quality, as well as its cultural and traditional value.
For producers, GI protection can enhance the reputation of their products and increase their market value, as customers are willing to pay a premium for products with a recognized GI status. This can lead to increased income and job opportunities for local producers, as well as support for the development and promotion of regional economies.
Moreover, GI protection can contribute to sustainable development by preserving traditional production methods and promoting environmental and social responsibility. By promoting the use of local resources and supporting traditional agricultural practices, GI protection can help to maintain the biodiversity and cultural heritage of the region.
Overall, GI protection is an important tool for promoting and preserving the unique cultural and traditional value of local products, while also providing economic benefits to producers and contributing to sustainable development.
How to register a geographical indication in Vietnam.pdf
Sử dụng hợp lý tác phẩm hay xâm phạm quyền tác giả - Ranh giới cần phân định.pdf
1. KENFOX IP & Law Office 1
“Sử dụng hợp lý” tác phẩm hay “xâm phạm quyền tác giả”?
Ranh giới cần phân định
Sử dụng hợp lý (fair use) tác phẩm của người khác, hay các trường hợp sử dụng tác phẩm không phải
xin phép và cũng không phải trả tiền nhuận bút hoặc thù lao, hay các trường hợp ngoại lệ không xâm
phạm bản quyền là nội dung được thiết lập trong pháp luật về sở hữu trí tuệ (SHTT) của nhiều nước,
theo đó, cho phép bên thứ ba sử dụng tác phẩm có bản quyền của người khác mà không cần phải xin
phép trong một số trường hợp nhất định. Nhưng cần nhớ rằng để được hưởng các ngoại lệ ấy, chủ thể
phải tuân thủ một số điều kiện nhất định. Điều này có nghĩa rằng, dù cho hành vi sử dụng tác phẩm
thuộc các trường hợp ngoạii lệ không xâm phạm quyền tác giả, chưa chắc hành vi đó đã được miễn trừ
trách nhiệm.
Vụ việc 1: Tranh chấp quyền tác giả tại Hoa Kỳ trên sơ sở “Sử dụng hợp lý”
Elliot McGucken một nhiếp ảnh gia người Mỹ, đã khởi kiện Pub Ocean Ltd sau khi công ty này công
bố những bức ảnh về một hồ nước hình thành ở Thung lũng Chết do Elliot McGucken chụp mà chưa
được phép.
Những bức ảnh của McGucken
Nhiếp ảnh gia Elliot McGucken đã chụp một loạt ảnh về cảnh tượng một hồ nước phù du hình thành
trên nền sa mạc ở Thung lũng Chết (Death Valley) sau những trận mưa lớn vào tháng 3 năm 2019.
McGucken đã đăng tải các bức ảnh lên trang Instagram của mình và chúng được chia sẻ rộng rãi.
Trong những tuần tiếp theo, McGucken đã nhận được nhiều đề nghị từ một số trang web để cho phép
đăng ảnh của McGucken trong các bài báo về hồ nước.
Bài báo của Pub Ocean được cho là có yếu tố vi phạm quyền tác giả
Pub Ocean, nhà xuất bản kỹ thuật số có trụ sở tại Vương quốc Anh, điều hành mạng lưới các trang
web phục vụ cho sở thích về du lịch, lịch sử, văn hóa đại chúng và các sự kiện hiện tại. Vào ngày 15
tháng 4 năm 2019, trên trang web của mình, Pub Ocean đã xuất bản một bài báo sử dụng 12 bức ảnh,
mà chưa được sự cho phép, của McGucken và kiếm được 6.815,66 đô la trong khoảng thời gian một
năm thông qua quảng cáo.
Bài báo của Pub Ocean có tiêu đề “Một hồ nước khổng lồ vừa hình thành ở giữa một trong những nơi
khô hạn nhất trên trái đất.” Như tiêu đề này cho thấy, trọng tâm của bài viết là hồ nước phù du. Phần
lớn bài báo mô tả cách hồ nước phù du hình thành và cách McGucken đến để chụp ảnh hiện tượng
này. Những bức ảnh của McGucken được sử dụng trong bài báo của Pub Ocean thảo luận cụ thể về
hồ nước với dòng chữ chú thích bên dưới bức ảnh.
Vụ kiện ban đầu được thụ lý bởi Toà án địa hạt bang California. Khi đó Toà địa hạt đã ra quyết định có
lợi cho Pub Ocean trên cơ sở đồng ý với biện hộ của Pub Ocean về việc sử dụng hợp lý tác phẩm (fair
use grounds).
Toà án phúc thẩm không công nhận hành vi sử dụng tác phẩm của Pub Ocean là sử dụng hợp
lý
Toà án phúc thẩm khu vực chín tại Hoa Kỳ nhận định rằng Pub Ocean đã “xâm phạm quyền tác giả”
mà không phải là “sử dụng hợp lý tác phẩm” của McGucken sau khi xem xét rằng hành vi sử dụng
tác phẩm của Pub Ocean không phải là hành vi sử dụng hợp lý do không thoả mãn bốn yếu tố luật định
trong nguyên tắc “sử dụng hợp lý”, cụ thể:
1. Xét về mục đích và đặc điểm của việc sử dụng tác phẩm được bảo hộ, bài viết của Pub Ocean
đã sử dụng ảnh của McGucken cho mục đích thương mại và việc sử dụng này không có tính biến đổi,
vì bài viết đã sử dụng ảnh cho đúng mục đích mà chúng được chụp: để mô tả hồ nước mà không được
thể hiện dưới góc độ mới hay khác biệt.
2 Xét về bản chất của tác phẩm được bảo hộ, mặc dù các bức ảnh của McGucken ghi lại một sự
kiện (thực tế) có thật, nhưng chúng “có tính sáng tạo vì chúng là sản phẩm của nhiều quyết định kỹ
Sử dụng hợp lý tác phẩm
Sử
dụng
hợp
lý
tác
phẩm
2. KENFOX IP & Law Office 2
thuật và nghệ thuật”. Việc các bức ảnh đã được nhiếp ảnh gia công bố trước đó không tự động mang
lại quyền sử dụng hợp lý cho Pub Ocean.
3. Xét về lượng và chất của phần được sử dụng trong tác phẩm được bảo hộ, Pub Ocean đã sử
dụng toàn bộ tác phẩm của McGucken chứ không phải một lượng nhỏ, chỉ cắt xén tối thiểu và chúng
được sao chép rộng rãi mà không có lý do chính đáng.
4. Xét về sự ảnh hưởng của việc sử dụng đối với thị trường tiềm năng hoặc đối với giá trị của tác
phẩm được bảo hộ, thì việc sử dụng của Pub Ocean không được coi là sử dụng hợp lý vì “nếu được
thực hiện một cách rộng rãi và không hạn chế, hành vi của Pub Ocean sẽ phá hủy thị trường cấp phép
của McGucken”.
Bởi vì tất cả bốn yếu tố theo luật định đều chỉ rõ rằng Pub Ocean không đáp ứng quy định về sử dụng
hợp lý tác phẩm của người khác, và do đó không thể viện dẫn quy định về sử dụng hợp lý tác phẩm để
biện hộ chống lại yêu cầu khởi kiện xâm phạm bản quyền của McGucken. Tòa phúc thẩm phán quyết
rằng tòa địa hạt đã sai lầm khi trước đó đã không ra phán quyết có lợi cho McGucken. Cuối cùng, Tòa
phúc thẩm khu vực chín (Ninth Circuit) đã đảo ngược phán quyết của Tòa địa hạt và yêu cầu thực thi
các thủ tục tố tụng tiếp theo có lợi cho nguyên đơn, McGucken.
Những bức ảnh của McGucken được sử dụng trong bài báo của Pub Ocean
Vụ việc 2: Tranh chấp quyền tác giả tại Việt Nam: “Sử dụng trái phép” hay “trích dẫn hợp lý”
tác phẩm?
Vụ kiện liên quan đến quyền tác giả được xét xử năm 2007 tại Việt Nam dưới đây cho chúng ta một góc
nhìn để soi chiếu đến quy định trong Luật SHTT hiện hành về “Các trường hợp ngoại lệ không xâm
phạm quyền tác giả”.
Sử
dụng
hợp
lý
tác
phẩm
3. KENFOX IP & Law Office 3
Nguyên đơn, ông Nguyễn Quảng Tuân, kiện bị đơn, ông Đào Thái Tôn vì cho rằng bị đơn đã sử dụng
nguyên văn bốn bài báo của nguyên đơn trong cuốn “Văn bản Truyện Kiều - nghiên cứu và thảo luận”
mà không xin phép, do vậy, đã xâm phạm quyền tác giả của nguyên đơn. Bị đơn thừa nhận có sử dụng
4 bài nghiên cứu của nguyên đơn, nhưng bác bỏ cáo buộc của nguyên đơn vì cho rằng, bốn bài báo
của nguyên đơn đã được in trên báo chí, đã được công bố và mục đích đưa 4 bài báo của nguyên đơn
là nhằm dựng lại một cách trung thực cuộc tranh luận mang tính khoa học, chứ không nhằm mục đích
thương mại. Bị đơn phải in toàn bộ 4 bài báo của nguyên đơn để người đọc có thể hiểu hết nội dung
cần tranh luận. Các bài viết của nguyên đơn không bị cắt xén, tên tác giả vẫn được đề rõ ràng để thể
hiện nguồn gốc tác phẩm. Do đó, thực chất là hành vi trích dẫn tác phẩm được pháp luật cho phép và
không xâm phạm bản quyền.
Trong phiên tòa sơ thẩm, tòa chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho rằng, hành vi sử dụng
4 bài nghiên cứu của bị đơn để đưa vào tác phẩm “Văn bản Truyện Kiều - nghiên cứu và thảo luận” mà
không xin phép là xâm phạm quyền tác giả của nguyên đơn, theo đó, buộc bị đơn phải xin lỗi, bồi thường
vật chất và tinh thần là 25 triệu đồng. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, tòa án phúc thẩm đã sửa lại
bản án cấp sơ thẩm với nhận định rằng tòa án cấp sơ thẩm đã sai lầm vì việc sử dụng 4 tác phẩm thực
chất là hành vi “trích dẫn tác phẩm”, để bình chú, chứ không phải sao chép tác phẩm. Như vậy, việc yêu
cầu bồi thường thiệt hại là không có cơ sở.
Rõ ràng quan điểm về hành vi sử dụng 4 bài nghiên cứu của bị đơn được 2 cấp xét xử của Việt Nam
nhận định khác nhau. Tòa sơ thẩm cho rằng bị đơn đã “Sử dụng trái phép” và xâm phạm quyền tác
giả của nguyên đơn; trong khi đó, tòa phúc thẩm cho rằng bị đơn chỉ “trích dẫn” tác phẩm để bình chú,
thể hiện quan điểm của mình, và do vậy, không xâm phạm quyền tác giả.
Phán quyết của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã làm dấy lên không ít cuộc tranh
luận từ các học giả, luật gia, luật sư, cho rằng: bản án phúc thẩm không thỏa đáng và thiếu logic vì, về
bản chất, “trích dẫn” theo từ điển tiếng Việt là “dẫn nguyên văn một câu hay một đoạn văn nào đó”, do
vậy, “trích dẫn tác phẩm” không thể là “sao chép toàn bộ” hoặc “in nguyên văn toàn bộ” tác phẩm của
người khác. Việc bị đơn in 4 bài nghiên cứu của nguyên đơn để đưa vào tác phẩm “Văn bản Truyện
Kiều - nghiên cứu và thảo luận” nên được coi là hành vi sao chép, sử dụng trái phép, chứ không phải
“trích dẫn hợp lý” tác phẩm của người khác.
“Sử dụng hợp lý” theo quy định của Luật SHTT Việt Nam
“Sử dụng hợp lý” (fair use) không phải thuật ngữ pháp lý trong Luật SHTT của Việt Nam. Tuy nhiên,
pháp luật về SHTT của Việt Nam có thiết lập các quy định về 12 trường hợp mà theo đó bên thứ ba có
thể được phép sử dụng tác phẩm có bản quyền của người khác.
Cụ thể, theo Điều 25 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019 và năm 2022 quy định về “Các
trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả”, trong 12 trường hợp sau đây, việc sử dụng
tác phẩm đã công bố của người khác có thể được thực hiện mà không phải xin phép, không phải trả
tiền bản quyền và không cấu thành hành vi xâm phạm quyền tác giả.
(i) Tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích
thương mại. Quy định này không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép;
(ii) Sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép để nghiên cứu khoa học, học tập
của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại;
(iii) Sử dụng hợp lý tác phẩm để minh họa trong bài giảng, ấn phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm,
ghi hình, chương trình phát sóng nhằm mục đích giảng dạy. Việc sử dụng này có thể bao gồm
việc cung cấp trong mạng máy tính nội bộ với điểu kiện phải có các biện pháp kỹ thuật để bảo
đảm chỉ người học và người dạy trong buổi học đó có thể tiếp cận tác phẩm này;
(iv) Sử dụng tác phẩm trong hoạt động công vụ của cơ quan nhà nước;
(v) Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận, giới thiệu hoặc minh họa
trong tác phẩm của mình; để viết báo, sử dụng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình
phát sóng, phim tài liệu;
(vi) Sử dụng tác phẩm trong hoạt động thư viện không nhằm mục đích thương mại, bao gồm sao
chép tác phẩm lưu trữ trong thư viện để bảo quản, với điều kiện bản sao này phải được đánh
dấu là bản sao lưu trữ và giới hạn đối tượng tiếp cận theo quy định của pháp luật về thư viện,
lưu trữ; sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép cho người khác phục vụ
nghiên cứu, học tập; sao chép hoặc truyền tác phẩm được lưu giữ để sử dụng liên thông thư
viện thông qua mạng máy tính, với điều kiện số lượng người đọc tại cùng một thời điểm không
Sử
dụng
hợp
lý
tác
phẩm
4. KENFOX IP & Law Office 4
vượt quá số lượng bản sao của tác phẩm do các thư viện nói nên nắm giữ, trừ trường hợp
được chủ sở hữu quyền cho phép và không áp dụng trong trường hợp tác phẩm đã được
cung cấp trên thị trường dưới dạng kỹ thuật số;
(vii) Biểu diễn tác phẩm sân khấu, âm nhạc, múa và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong
các buổi sinh hoạt văn hóa, hoạt động tuyên truyền cổ động không nhằm mục đích thương
mại;
(viii) Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm mỹ thuật, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng
bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó, không nhằm mục đích
thương mại;
(ix) Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng cá nhân, không nhằm mục đích
thương mại;
(x) Sao chép bằng cách đăng tải lại trên báo, ấn phẩm định kỳ, phát sóng hoặc các hình thức
truyền thông khác tới công chúng bài giảng, bài phát biểu, bài nói khác được trình bày trước
công chúng trong phạm vi phù hợp với mục đích thông tin thời sự, trừ trường hợp tác giả
tuyên bố giữ bản quyền;
(xi) Chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phát sóng sự kiện nhằm mục đích đưa tin thời sự, trong đó có sử
dụng tác phẩm được nghe thấy, nhìn thấy trong sự kiện đó;
(xii) Người khuyết tật nhìn, người khuyết tật không có khả năng đọc chữ in và người khuyết tật
khác không có khả năng tiếp cận tác phẩm để đọc theo cách thông thường, người nuôi dưỡng,
chăm sóc cho người khuyết tật, tổ chức đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ sử
dụng tác phẩm.
Lưu ý rằng, ngoài việc đáp ứng các điều kiện được chi tiết hóa trong từng hành vi theo 12 trường hợp
nêu trên, người sử dụng còn phải thỏa mãn các điều kiện sau đây:
(i) Phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm đã sử dụng;
(ii) Việc sử dụng tác phẩm không được mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm và
không gây thiệt hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác
giả.
(iii) Việc sao chép không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm mỹ thuật, chương trình máy
tính; việc làm tuyển tập, hợp tuyển các tác phẩm.
Trong số 12 trường hợp ngoại lệ nêu trên, đáng lưu ý, hành vi “trích dẫn hợp lý tác phẩm” đã được cụ
thể hóa tại Điều 23 Nghị định 22/2018/NĐ-CP. Theo đó, để được coi là “trích dẫn hợp lý tác phẩm” thì
cần phải tuân thủ các điều kiện sau:
1. Phần trích dẫn chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề được đề cập trong
tác phẩm của mình.
2. Phần trích dẫn từ tác phẩm được sử dụng để trích dẫn không gây phương hại đến quyền tác giả đối
với tác phẩm được sử dụng để trích dẫn; phù hợp với tính chất, đặc điểm của loại hình tác phẩm được
sử dụng để trích dẫn.
Như vậy, dường như theo quy định của Điều 23 Nghị định 22/2018/NĐ-CP, “trích dẫn hợp lý” có thể
được hiểu là trích dẫn một “phần”, chứ không phải là trích dẫn “toàn bộ”. Việc trích dẫn là phần được
rút từ tác phẩm, tức một phần của tác phẩm, chứ không phải là dẫn lại toàn bộ tác phẩm. Điều này
dường như phù hợp và logic. “Trích dẫn” được hiểu là việc “trích dẫn nguyên văn một câu hay một đoạn
văn nào đó” theo Từ điển tiếng Việt, còn “hợp lý” thì được hiểu là “đúng lẽ phải, đúng với sự cần thiết
hoặc logic của sự việc”. Một tác phẩm có thể có nhiều câu văn, đoạn văn nên việc trích dẫn “toàn bộ tác
phẩm” không nằm trong định nghĩa của “trích dẫn”. Do vậy, quy định về trích dẫn chỉ nên được diễn giải
theo hướng: “trích dẫn hợp lý một phần tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh
họa trong tác phẩm của mình”. Cách diễn này này phù hợp với Điều 10 Công ước Berne với quy định
rằng: “được coi là hợp pháp những trích dẫn rút từ một tác phẩm đã được phổ cập tới công chúng một
cách hợp pháp, miễn là sự trích dẫn đó là phù hợp với những thông lệ chính đáng và trong mức độ phù
hợp với mục đích”.
Tuy nhiên, cách hiểu nêu trên vẫn chưa được khẳng định. Hiện vẫn chưa có cơ sở chắc chắn để khẳng
định rằng, liệu việc sử dụng “nguyên văn và toàn bộ” tác phẩm của người khác cho mục đích phi lợi
nhuận có thuộc nội hàm của quy định “trích dẫn hợp lý tác phẩm” theo các quy định của pháp luật về
SHTT hiện hành tại Việt Nam hay không, có xâm phạm quyền tác giả hay không? Và nếu không được
Sử
dụng
hợp
lý
tác
phẩm
5. KENFOX IP & Law Office 5
phép trích dẫn toàn bộ tác phẩm, thì việc trích dẫn bao nhiêu phần trăm của tác phẩm mà không xin
phép tác giả thì không bị coi là xâm phạm quyền tác giả.
Lời kết
Ranh giới giữa “sử dụng hợp lý” tác phẩm với “xâm phạm quyền tác giả” đôi khi rất mong manh và
thường gây tranh cãi không dứt giữa chủ sở hữu quyền tác giả và người sử dụng không xin phép. Khi
sử dụng tác phẩm của người khác mà không xin phép, việc hiểu, diễn giải đúng và tuân thủ các điều
kiện luật định về “các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả” theo quy định của Luật
SHTT Việt Nam có ý nghĩa quan trọng để tránh xâm phạm quyền SHTT của người khác.
Năm yếu tố sau đây cần được đánh giá, xem xét thận trọng nếu sử dụng tác phẩm mà không xin phép
tác giả:
(i) Mục đích của việc sử dụng (cho mục đích giáo dục, phi lợi nhuận hay có mục đích thương mại?);
(ii) Thông tin về tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm đã được nêu rõ khi sử dụng tác phẩm
có bản quyền hay chưa;
(iii) Tác động, ảnh hưởng đến bản gốc như thế nào (có bị coi là sao chép tác phẩm, sửa chữa, cắt
xén tác phẩm gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả, việc sử dụng đó có mâu thuẫn
với việc khai thác bình thường tác phẩm và gây thiệt hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp
của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả hay không?);
(iv) Số lượng và thực chất của phần được sử dụng trong tác phẩm được bảo hộ; và
(v) Vấn đề ảnh hưởng của việc sử dụng đó đối với thị trường tiềm năng hoặc đối với giá trị của tác
phẩm được bảo hộ.
By Nguyen Vu QUAN
Partner & IP Attorney
Contact
KENFOX IP & Law Office
Building No. 6, Lane 12/93, Chinh Kinh Street, Nhan
Chinh Ward, Thanh Xuan District, Hanoi, Vietnam
Tel: +84 24 3724 5656
Email: info@kenfoxlaw.com / kenfox@kenfoxlaw.com
Sử
dụng
hợp
lý
tác
phẩm