Cửu Đỉnh của nhà Nguyễn (tiếng Hán: 阮朝九鼎) là chín cái đỉnh bằng đồng, đặt ở trước sân Thế miếu trong Hoàng thành Huế. Cửu Đỉnh được vua Minh Mạng ra lệnh đúc vào mùa đông năm 1835 và khánh thành vào ngày 1 tháng 3 năm 1837.
Lấy ý tưởng từ Cửu đỉnh của nhà Hạ ở Trung Quốc, vua Minh Mạng ban chỉ dụ cho Nội các vào tháng 10 âm lịch năm Ất Mùi (1835), ra lệnh cho Nội các cùng bộ Công đôn đốc công việc đúc Cửu Đỉnh. Tháng 5 âm lịch năm Bính Thân (1836), phần thô của chín đỉnh đúc xong. Nhưng phải mất gần 8 tháng sau, Cửu Đỉnh mới được chính thức hoàn thành. Buổi đại lễ diễn ra vào ngày 1 tháng 3 năm 1837 để đặt đỉnh ở sân Thế Miếu dưới sự chủ trì của vua Minh Mạng. Trong thời kỳ chiến tranh Đông Dương rồi chiến tranh Việt Nam, theo đó là suy thoái của thời kỳ bao cấp (1945 - 1981), Cửu Đỉnh vẫn không dời chuyển và còn nguyên vẹn tới ngày nay.
Cửu Đỉnh gồm chín cái đỉnh đồng, mỗi đỉnh có một tên riêng ứng với một thuỵ hiệu của mỗi vị hoàng đế triều Nguyễn. Trên mỗi đỉnh, người ta đều chạm khắc 17 bức họa tiết và 1 bức họa thư, gồm các chủ đề về vũ trụ, núi sông, chim thú, sản vật, vũ khí,...tập hợp thành bức tranh toàn cảnh của đất nước Việt Nam thống nhất thời nhà Nguyễn.
(Source: Wikipedia)
Cửu Đỉnh của nhà Nguyễn (tiếng Hán: 阮朝九鼎) là chín cái đỉnh bằng đồng, đặt ở trước sân Thế miếu trong Hoàng thành Huế. Cửu Đỉnh được vua Minh Mạng ra lệnh đúc vào mùa đông năm 1835 và khánh thành vào ngày 1 tháng 3 năm 1837.
Lấy ý tưởng từ Cửu đỉnh của nhà Hạ ở Trung Quốc, vua Minh Mạng ban chỉ dụ cho Nội các vào tháng 10 âm lịch năm Ất Mùi (1835), ra lệnh cho Nội các cùng bộ Công đôn đốc công việc đúc Cửu Đỉnh. Tháng 5 âm lịch năm Bính Thân (1836), phần thô của chín đỉnh đúc xong. Nhưng phải mất gần 8 tháng sau, Cửu Đỉnh mới được chính thức hoàn thành. Buổi đại lễ diễn ra vào ngày 1 tháng 3 năm 1837 để đặt đỉnh ở sân Thế Miếu dưới sự chủ trì của vua Minh Mạng. Trong thời kỳ chiến tranh Đông Dương rồi chiến tranh Việt Nam, theo đó là suy thoái của thời kỳ bao cấp (1945 - 1981), Cửu Đỉnh vẫn không dời chuyển và còn nguyên vẹn tới ngày nay.
Cửu Đỉnh gồm chín cái đỉnh đồng, mỗi đỉnh có một tên riêng ứng với một thuỵ hiệu của mỗi vị hoàng đế triều Nguyễn. Trên mỗi đỉnh, người ta đều chạm khắc 17 bức họa tiết và 1 bức họa thư, gồm các chủ đề về vũ trụ, núi sông, chim thú, sản vật, vũ khí,...tập hợp thành bức tranh toàn cảnh của đất nước Việt Nam thống nhất thời nhà Nguyễn.
(Source: Wikipedia)
1. NHỮNG ĐỊA DANH VIỆT NAM BỊ THAY ĐỔI VÀ SAI LỆCH
Ở Việt Nam, có hàng trăm địa danh bị thay đổi hay sai lệch về ngữ âm và chữ viết. Tìm
hiểu những nguyên nhân gây ra sự biến đổi này, chúng ta sẽ hiểu được nguồn gốc và ý
nghĩa ban đầu của các địa danh.
Những kiểu thay đổi và sai lệch cụ thể như sau:
1- Do hiện tượng đồng hóa: Hai âm tố khác nhau nhưng đứng gần nhau, âm tố này làm
cho âm tố kia giống với nó. Có hai địa danh thuộc kiểu này:
Pha Đin là đèo trên Quốc lộ 6, từ huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đi huyện Tuần
Giáo, tỉnh Điện Biên, dài 36km, cao 1.050m. Cũng gọi là Cổng Trời. Chữ Pha Đin từ
gốc Tày - Nùng Phạ Đin, nghĩa là “trời đất”, vì đèo quá cao, như chỗ gặp nhau giữa
trời và đất. Ở đây có hiện tượng đồng hóa thanh điệu: thanh ngang của Đin đồng
hóa thanh nặng của Phạ thành Pha.
Tam Thương là bến trên sông Trà Khúc (Quảng Ngãi). Tam Thương vốn là từ Hán
Việt, dạng gốc là Tạm Thương, nghĩa là “kho tạm”, nằm gần bến. Ở đây thanh
ngang của Thương đồng hóa thanh nặng của Tạm thành Tam Thương.
2- Do hiện tượng dị hóa: Hai âm tố giống nhau nhưng đứng gần nhau, âm tố này làm
cho âm tố kia khác với nó. Có ba địa danh thuộc kiểu này:
Bà Bèo là kinh nối sông Tiền và sông Vàm Cỏ, chảy qua các huyện Cai Lậy, Tân
Phước (Tiền Giang) và Châu Thành (Long An), dài 25km. Vương Hồng Sển cho biết
âm gốc của địa danh này là Bàu Bèo. Người Khmer cũng gọi kinh Bà Bèo là Cumnik
Prêk Cak tức “kinh rạch bèo”.
Bà Hói là rạch ở xã Long Thới, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh. Trên bản đồ
thời Pháp thuộc ghi rạch này là Bàu Hói: “rạch ở giữa có chỗ phình rộng”.
Bà Môn là rạch ở thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh, TP.HCM. Nguyễn Văn Trấn,
người địa phương, cho biết âm gốc của địa danh này là Bàu Môn, tức “cái bàu có
trồng môn nước”.
Dạng gốc của ba địa danh này (Bàu Bèo, Bàu Hói, Bàu Môn) đều là hai âm tiết có vần tròn
môi cho nên khó phát âm. Vì vậy, chúng cần dị hóa cho dễ phát âm. Từ đó, chúng tôi nghĩ
rằng dạng gốc của các địa danh Bà Hom, Bà Quẹo (TP.HCM) có thể là Bàu Hom (bàu ngâm
2. hom tre), Bàu Quẹo (bàu nằm ở chỗ quẹo của đường Trường Chinh). Ở xã Phạm Văn Hai,
huyện Bình Chánh có cống Quẹo; ở xã Cần Thạnh, huyện Cần Giờ (TP.HCM) có vùng Lộ
Quẹo.
3. Do kiêng húy: Dưới chế độ phong kiến, khi các địa danh có một yếu tố đồng âm với
tên húy (tên kiêng gọi), phải đọc và viết chệch yếu tố đó hoặc thay bằng yếu tố khác. Có
hàng trăm trường hợp loại này, chỉ xin nêu vài địa danh tiêu biểu:
Đông Ba là chợ ở thành phố Huế; huyện Mộ Đức thuộc tỉnh Quảng Ngãi; cầu Bông ở giữa
quận 1 và quận Bình Thạnh, TP.HCM. Ba tên này mới đổi sau khi vua Thiệu Trị lên ngôi
(1841). Âm gốc của ba địa danh này là Đông Hoa, cầu Hoa, Mộ Hoa. Vì kiêng húy bà Hồ
Thị Hoa – mẹ vua – nên phải đổi bằng cách nói chệch (Hoa –> Ba), thay bằng từ đồng
nghĩa (Hoa –> Bông), thay bằng từ tương đương (Hoa –> Đức).
4. Do hiện tượng nhập âm: Những địa danh có hai, ba âm tiết nhập lại, bị giảm đi một
âm tiết. Đó là những địa danh:
Vũng Rô là địa điểm ở tỉnh Phú Yên, gần đèo Cả. Vốn là vũng Ô Rô, nhập âm thành
Vũng Rô. Ô rô là loại cây nhỏ, lá cứng, dài, mép lượn sóng có gai nhọn, thường mọc
ở các bãi nước lợ.
Bến Dược là vùng đất ở xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, TP.HCM. Bến Dược do bến
Bà Dược (tại đây có xóm Bà Dược) rút gọn mà thành.
Cái Nước là rạch bên tả ngạn sông Bồ Đề ở tỉnh Cà Mau và là huyện của tỉnh. Cái
Nước do Cái Dừa Nước rút gọn lại vì hai bên rạch có rất nhiều dừa nước.
5. Do hiện tượng rút gọn: Một số địa danh có nhiều âm tiết nhưng người ta chỉ gọi một
âm tiết. Âm tiết được rút gọn thường đứng sau, ít đứng đầu.
Chỉ gọi âm tiết đầu: cửa Vạn Phần –> cửa Vạn (Nghệ An); cửa Hội Thống –> cửa
Hội (Hà Tĩnh); Vĩnh Doanh –> (thành phố) Vĩnh (Nghệ An, sau biến âm thành
Vinh)…
Chỉ gọi âm tiết sau: cửa Tứ Hội –> cửa Hội (Hà Tĩnh).
6. Do hiện tượng biến âm: Biến âm chủ yếu do ngữ âm địa phương. Chẳng hạn, vì
không phân biệt các âm đầu ch - tr, s - x, v - d - gi, một số âm chính o -ô, ă - â, một số
vần tận cùng bằng t - c, n - ng, hai thanh hỏi - ngã, nên nhiều địa danh bị sai lệch ở âm
đầu, vần, thanh điệu hoặc hai, ba bộ phận trên.
3. Biến âm ở phụ âm đầu:
Hàng Sanh –> Hàng Xanh (TP.HCM); Vồng Trôm –> Giồng Trôm (Bến Tre)…
Biến âm ở vần:
Các Bà –> (đảo) Cát Bà (TP. Hải Phòng); (Thuận) Hóa –> Huế; rạch (cây) Gằm –> Gầm
(Tiền Giang); huyện Xương Mộc –> Xuyên Mộc (Bà Rịa – Vũng Tàu); rạch Ong –> Ông;
rạch Chun –> Chung; sông Tắt –> Tắc; Các Lái –> Cát Lái (TP. HCM); Hùng Ngự –> Hồng
Ngự ; Câu Lãnh –> Cao Lãnh (Đồng Tháp)…
Biến âm ở thanh điệu:
Thôn Vi Dã –> Vĩ Dạ (TP. Huế); kinh Tẽ –> Tẻ; lũy Trảo Trảo –> (cầu) Trao Trảo; Thạnh
Đa –> Thanh Đa; (sông) Lôi Giáng –> Lôi Giang (TP. HCM)…
Biến âm ở hai yếu tố:
Khu công nghiệp Vũng Quít –> Dung Quất (Quảng Ngãi); khu Mả Loạn –> Mã Lạng (Phan
Thiết); sông Giằng Xay –> Dần Xây (TP. HCM)…
7. Do hiện tượng mượn âm: Khi du nhập một địa danh bằng ngôn ngữ khác không phải
tiếng Việt có âm na ná tiếng Việt, địa danh đó phải mang “chiếc áo” tiếng Việt để dễ dùng
và dễ phổ cập. Xin nêu mấy trường hợp tiêu biểu:
Bò Đái là khe trong núi ở huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Còn có tên Ồ Ồ, vì
tiếng nước chảy, ở xa đến 10km vẫn nghe. Bò Đái gốc Tày – Nùng là Bó Đảy, nghĩa
là “nguồn nước có nhiều cây nứa tép”.
Hà Lan là đèo ở huyện Krông Búc, tỉnh Đắc Lắc. Hà Lan gốc Ê Đê, nguyên dạng là
Hlang, nghĩa là “cỏ tranh”. Hlang đã mượn âm Hà Lan, tên một quốc gia ở châu Âu.
Cù Lao là đảo nhỏ ngoài khơi TP. Nha Trang. Cù Lao gốc Mã Lai Pulaw, là “hòn
đảo”. Trong tiếng Việt đã có sẵn từ cù lao (“công lao khó nhọc của cha mẹ khi nuôi
con”) có âm na ná pulaw nên pulaw mang vỏ ngữ âm của cù lao. Người Chăm cũng
gọi tương tự người Mã Lai: palao là “hòn đảo”.
Bái Tử Long là vũng biển trong vịnh Hạ Long, thuộc tỉnh Quảng Ninh. Bái Tử Long
là từ Hán Việt. Có người cho rằng vì vịnh đẹp như vịnh Tulon ở Pháp nên người
Pháp gọi là Baie Tulon, sau người Việt chuyển hóa thành Bái Tử Long. Thật ra, ở
Pháp không có địa danh Tulon, mà chỉ có Toulon (đọc là “tu - lông”), tỉnh lỵ tỉnh
Var, nằm bên bờ Địa Trung Hải. Vậy dạng gốc là Baie Toulon. Việc giải thích này có
lý, vì có hiện tượng mượn âm trong tiếng Việt.
4. 8. Do Việt hóa: Những địa danh Việt cổ hoặc bằng các ngôn ngữ dân tộc anh em, để dễ
sử dụng, người Việt đã Việt hóa hoàn toàn.
Klu là địa danh cổ cần biến thành dạng hiện đại - Cổ Loa - cho mọi người dùng
được.
Blao (Lâm Đồng) là tiếng dân tộc thiểu số phải biến thành Bảo Lộc mới thông dụng.
(Hồ) Lak biến thành Lạc Thiện (Đắc Lắc).
Cam Ly là thác nước ở TP Đà Lạt. Cam Ly gốc Cơ Ho Kamlê, vốn là tên người.
9. Do “Tây hoá”: Khi người phương Tây đến nước ta, họ đã nói và viết theo ngữ âm và
chữ viết tiếng mẹ đẻ, làm nhiều địa danh Việt Nam bị sai lệch.
Làng Cò –> Lăng Cô (Thừa Thiên - Huế); Hoài Phố –> Faifo (Quảng Nam); Mỹ Lại –> Mỹ
Lai (Quảng Ngãi); (đảo) Nam Dự –> Nam Du (Kiên Giang); Ba Làng An (An Chuẩn, Hải An
và Vân An) –> Batangan (Quảng Ngãi); Đất Hộ –> Đa Kao, Chí Hòa –> Kí Hòa, Kỳ Hòa
(TP.HCM)…
10. Do in ấn:
Sông Cửu Long có tên hai cửa in sai: (Cửa) Trấn Di bị in sai lạc thành Trần Đề và Tranh Đề
(Sóc Trăng); (cửa) Cồn Ngao thành Cung Hầu (Bến Tre).
Qua các phần trình bày trên, ta thấy ít nhất có đến 10 nguyên nhân trong cũng như ngoài
ngôn ngữ làm ảnh hưởng đến cấu trúc của địa danh. Và việc biến đổi này có tính liên tục
và đa dạng. Vì thế, chúng ta phải lưu ý khi đi tìm từ nguyên của địa danh. Biết được dạng
gốc, ta càng yêu những địa danh của quê hương, đất nước mình.
Lê Trung Hoa
Nguồn: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn