Bảng so sánh giữa các nguồn luật điều chỉnh giới hạn của người chuyên chở trong vận tải container
1. Bảng so sánh giữa các nguồn luật điều chỉnh giới hạn của người chuyên chở trong
vận tải container. Các nội dung so sánh bao gồm: giới hạn trách nhiệm của người
chuyên chở trong trường hợp mất mát, hư hỏng, hàng hóa vận chuyển bằng
container và dụng cụ vận chuyển; trường hợp giao hàng chậm; trường hợp người
chuyên chở mất quyền hưởng giới hạn trách nhiệm; các quy định về thỏa thuận hạ
thấp giới hạn trách nhiệm và tăng giới hạn trách nhiệm.
Các nội Quy tắc Hague Quy tắc Hague Quy tắc Luật hàng hải
dung so 1924 Visby 1968 Hamburg 1978 Việt Nam
sánh 2005
Hàng mất Điều IV Quy Điều IV Quy Điều 6: Điều 79:
mát hoặc hư tắc 5: tắc 5: 2. 5 SDR cho Tương tự như
hỏng 100 bảng Anh 10000 Franc một kilogram Nghị định thư
cho một kiện vàng cho hoặc 835 1979 trong
hoặc đơn vị mộtkiện hoặc SDRcho một quy tắc Hague
hàng hoá đơn vị hàng kiện hoặc đơn vị – Visby tuy
trừtrường hợp hoá hoặc 30 chuyên chở vậy giữa 666,
giá trị hàng hoá Franc vàng cho 67 SDR/ kiện
được kê khai một kilogram và 2SDR/kg
và ghi trong cả bì. cả bì thì áp
vận đơn Theo nghị định dụng tuỳ vào
thư SDR 1979, giá trị hàng
2SDR cho một hoá.
kilogram hoặc
666, 67 SDR
cho một kiện,
tuỳ thuộc cách
tính nào cao
hơn
Hàng vận Không quy Nếu đơn vị Không quy định Khoản 2 điều
chuyển định hàng hóa hay 79 tương tự
bằng kiện bao, gói Hague Visby
container hàng… có kê
khai trên vận
đơn thì mỗi
kiện hàng kê
khai sẽ được
coi là một đơn
vị hàng hóa đòi
2. bồi thường;
Nếu không kê
khai thì cả
container là
một đơn vị
hàng hóa đòi
bồi thường.
Dụng cụ Không quy Không quy Trường hợp vỏ Không quy
vận chuyển định định container, pallet định
hay công cụ vận
tải được dùng
trong chuyên
chở không do
người chuyên
chở cung cấp thì
mỗi công cụ
được tính là một
đơn vị hàng hóa
đòi bồi thường.
Chậm giao Không quy Không quy Điều 6: Không quy
hàng định định 2.5 lần tiền cướcđịnh thế nào là
của số hàng chậm giao
giao chậm, hàng. Nếu các
không vượt quá bên có thoả
tổng tiền cước thuận thì áp
dụng như Quy
tắc Hamburg
Mất quyền Không có quy Điều IV quy Điều 8: Điều 80-1:
hưởng giới định đặc biệt tắc 5 (e): Người vận Tương tự như
hạn trách nhưng người Mất quyền nếu chuyển chỉ mất phần đầu Điều
nhiệm vận chuyển có người vận quyền hưởng IV Quy tắc
thể không được chuyển có ý giới hạn trách 5(e) của
giới hạn trách định gây ra tổn nhiệm nếu có ý Hague Visby.
nhiệm nếu đi thất hoặc cẩu định gây ra tổn Không đề cập
chệch đường thả khi biết thất hoặc cẩu tới trường hợp
không hợp lý rằng tổn thất có thả khi biết rằng mất quyền
hoặc chở hàng thể xảy ra. Có tổn thất có thể giới hạn khi đi
trên boong thể cũng mất xảy ra. Việc chở chệch đường.
3. quyền nếu đi hàng trên
chệch đường boong, nếu rõ
không hợp lý ràng bị cấm,
hoặc chở hàng cũng làm mất
trên boong quyền hưởng
giới hạn trách
nhiệm
Thoả thuận Điều VI: Điều VI: Không có quyền Không đề cập
hạ thấp giới Chỉ được phép Tương tự Quy đặc biệt để thoả
hạn trách khi đó không tắc Hague thuận hạ thấp
nhiệm phải là những giới hạn trách
lô hàng thông nhiệm
thường và phải
hợp lý trong
những hoàn
cảnh đặc biệt
Thảo thuận Điều V: Điều V: Điều 6, 4 điều Không quy
tăng giới Được phép nếu Tương tự Quy 15: định
hạn trách có ghi trong tắc Hague Được phép nếu
nhiệm vận đơn hai bên thoả
thuận. Phải
ghivào trong
vận đơn.
Giới hạn trách nhiệm (GHTN) của người chuyên chở được quy định trong các
nguồn luật quốc tế điều chỉnh vận đơn đường biển và Luật Hàng hải của các Việt
Nam, đều chia ra hai trường hợp cụ thể. Đó là trường hợp hàng hóa được khai báo
giá trị và trường hợp không khai báo giá trị hàng hóa.
Các nguồn luật điều chỉnh giống nhau chủ yếu ở trường hợp có kê khai giá
trị hàng hóa trước khi xếp hàng và được người chuyên chở chấp nhận, ghi
vào vận đơn hay chứng từ tương tự, thì người chuyên chở chịu trách nhiệm
bồi thường mất mát, hư hỏng hàng hóa trên cơ sở giá trị khai báo theo
nguyên tắc: “Hàng bị mất thì bồi thường bằng giá trị khai báo, hàng bị hư
hỏng thì bồi thường bằng mức chênh lệch giữa giá trị khai báo và giá trị còn
lại của hàng hóa. Giá trị còn lại của hàng hóa được xá c định trên cơ sở giá
trị thị trường tại thời điểm và địa điểm dỡ hàng; nếu không xác định được thì
4. căn cứ vào giá trị thị trường tại thời điểm và địa điểm bốc hàng cộng thêm
chi phí vận chuyển đến cảng trả hàng”
Sự khác nhau của các nguồn luật phần lớn ở trường hợp thứ hai khi hàng hóa
không được khai báo giá trị:
Quy tắc Hague 1924 ra đời trước nên đơn vị tiền tệ được sử dụng là đồng
bảng Anh khác so với quy tắc Hague Visby 1968, quy tắc Hamburg 1978 và
luật hàng hải Việt Nam sử dụng dơn vị tiền tề là đồng tiền SDR (Special
Drawing Right - Quyền rút vốn đặc biệt).SDR được định giá bằng số bình
quân gia quyền của các đồng tiền mạnh (đô la Mỹ, Bảng Anh, Euro và Yên
Nhật)..Rõ ràng các nguồn luật khác sử dụng đồng tiền SDR có ưu điểm hơn
quy tắc Hague. Bởi vì đồng bảng Anh chỉ là đồng tiền riêng của một quốc
gia của một quốc gia. Hơn nữa, do quy tắc Hague ra đời từ lâu nên tỷ giá cho
đến bây giờ có thay đổi nhiều.SDR có giá trị ổn định hơn và có nhiều ưu
điểm hơn so với từng loại tiền riêng biệt.
Quy tắc Hamburg quy định giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở sâu
hơn quy tắc Hague và Hague Visby khi bổ sung thêm trách nhiệm khi giao
chậm hàng và đối với dụng cụ vận chuyển như thùng container hay pallet.
Ngoài ra, mức bồi thường của quy tăc Hamburg cũng cao hơn so với quy tắc
Hague và Hague Visby trong cả trường hợp hư hỏng mất mát và chậm
giao.Và quy tắc Hamburg cũng quy định người chuyên chở không có quyền
đặc biệt để thoả thuận hạ thấp giới hạn trách nhiệm, ngược lại với quy tắc
Hague và Hague Visby quy định người chuyên chở được phép khi đó không
phải là những lô hàng thông thường và phải hợp lý trong những hoàn cảnh
đặc biệt.
Tuy nhiên, quy tắc Hamburg có vẻ nới lỏng cho người chuyên chở hơn khi
cho phép người chuyên chở đi chệch hướng mà không bị mất quyền hưởng
giới hạn trách nhiệm. Nếu gây ra tổn thất khi đi chệch hướng, còn phụ thuộc
vào việc kiểm tra xem có thuộc trách nhiệm của người vận chuyển hay
không. Và quy tắc Hamburg không quy định trách nhiệm của người chuyên
chở đối với hàng hóa vận chuyển bằng container.
Luật hàng hải Việt Nam thường quy định tương tự quy tắc Hague Visby. Ví
dụ như giá trị bồi thường hàng hóa bị hư hỏng và mất mát được tính là 666,
67 SDR/ kiện, cách tính này có lợi cho người chuyên chở hơn và đối với
hàng hóa vận chuyển bằng container cũng được quy định theo quy tắc
5. Hague Visby. Tuy nhiên, trong một số trường hợp thì luật hàng hải Việt
Nam áp dụng theo quy tắc Hamburg. Ví dụ, đối với trường hợp chậm giao
hàng, luật hàng hải Việt Nam cũng quy định mức bồi thường là 2.5 lần tiền
cước của số hàng giao chậm, không vượt quá tổng tiền cước và người
chuyên chở không bị mất quyền hưởng giới hạn trách nhiệm khi đi chệch
hướng.
Tóm lại, luật hàng hải Việt Nam kết hợp quy định của cả hai quy tắc Hague
Visby và quy tắc Hamburg nhằm bổ sung đầy đủ các nội dung mà hai quy tắc
này còn chưa đề cập đến. Do đó, bộ luật hàng hải Việt Nam có thể được xem
như là đầy đủ và phù hợp trên mọi phương diện