1. Bưởi (danh pháp hai phần: Citrus maxima (Merr., Burm. f.), hay Citrus
grandis L., là một loại quả thuộc chi Cam chanh, thường có màu xanh lục
nhạt cho tới vàng khi chín, có múi dày, tép xốp, có vị ngọt hoặc chua ngọt
tùy loại. Bưởi có nhiều kích thước tùy giống, chẳng hạn bưởi Đoan Hùng chỉ
có đường kính độ 15 cm, trong khi bưởi Năm Roi, bưởi Tân Triều(Biên
Hòa), bưởi da xanh (Bến Tre) và nhiều loại bưởi khác thường gặp ở Việt
Nam, Thái Lan có đường kính khoảng 18–20 cm.
Bưởi tiếng Anh gọi là Pomelo, tuy nhiên nhiều từ điển ở Việt Nam
dịch bưởi ra thành grapefruit, thực ra grapefruit là tên gọi bằng tiếng Anh
của bưởi chùm (Citrus paradisi) - loại cây lai giữa bưởi và cam, có quả nhỏ
hơn, vỏ giống cam, mùi bưởi, ruột màu hồng, vị chua hơi đắng. Sai lầm dẫn
này đến lỗi tiếng Anh của nhiều người khác.
Quả bưởi và bòng là 2 trái khác nhau. So với quả bưởi, bòng nhỏ và tròn
hơn. Nếu đường kính trái bưởi là 18–20 cm thì trái bòng có kích thước trung
bình nhỏ hơn khoảng 13–15 cm. Hạt quả bòng nhỏ hơn nhưng lại dày hơn
của trái bưởi, tép cũng nhỏ hơn. Về mùi vị, trái bưởi có mùi thơm nhẹ
nhàng, ngọt ngào hơn. Ngoài ra, so với trái bưởi, bòng chua hơn nhiều và so
với vị thanh và ngọt của trái bưởi.
Có nhiều loại bưởi khác nhau như:
-Bưởi Duncan hình tròn, lớn tới 12 cm đường kính, vỏ vàng lạt, cùi (pulp)
mềm nhiều nước, vị thơm.
-Bưởi không hột Marsh hình tròn hơi dẹp hai đầu, kích thước từ 9-12 cm, vỏ
nhẵn mầu vàng nhạt, cùi rất nhiều nước với vị thơm đặc biệt.
-Bưởi Paradise Navel hình cầu dẹt, nhỏ trái
-Bưởi Star Ruby vỏ mầu vàng, cùi chứa nước mầu đỏ, có hoặc không có
hột.
Bưởi Việt Nam có cùi dầy, múi to mà nhiều loại rất ngọt như bưởi ở các địa
phương Đoan Hùng, Hưng Yên, Phúc Trạch, năm Roi, Biên Hòa...
Khí hậu ấm nóng vùng nhiệt đới rất thích hợp cho sự tăng trưởng của bưởi.
Độ ẩm cao làm vỏ mỏng trong và vỏ bưởi dày hơn khi không khí khô.
Mặc dù bưởi có quanh năm, nhưng từ mùa đông tới đầu xuân, bưởi ngon
hơn
2.
3. Bưởi là loài cây to, cao trung bình khoảng 3–4 m ở tuổi trưởng thành, vỏ
thân có màu vàng nhạt, ở những kẽ nứt của thân đôi khi có chảy nhựa. Cay
than go. Cành có gai dài, nhọn. Lá có gan hinh mang,la hình trứng, dài 11–
12 cm, rộng 4,5-5,5 cm, hai đầu tù, nguyên, dai, cuống có dìa cánh to. Hoa
thuộc loại hoa kép, đếu, mọc thành chùm 6-10 bông. Quả hình cầu to, vỏ
dày, màu sắc tùy theo giống.
Cây bòng thường nhỏ hơn, lá xanh hơn cây bưởi, tuy nhiên chiều cao của
cây bòng lại cao hơn trung bình cây bưởi tới 1m.
Trước đây, ở nhiều vùng quê Việt Nam, cây bòng là khá phổ biến tuy nhiên
tính chất vượt trội hơn là trái ngon hơn và thời gian ra quả sớm nên dân ta
dần chuyển đổi sang trồng bưởi. Ngoài ra, do tình lai tạo cấy ghép nên,
những đặc điểm sơ khai trở nên khó phân biệt hơn và nhiều người chỉ nhận
thấy sự xuất hiện của trái bưởi trên thị trường.
Về đặc tính địa lí, ở Việt Nam, cây bòng chủ yếu được trồng ở miền Bắc và
bưởi chủ yếu được trồng ở miền Nam
Công dụng phụ
Lá bưởi thường được dùng nấu với các lá thơm khác để xông chữa
cảm cúm, nhức đầu.
Vỏ quả bưởi chữa ăn uống không tiêu, đau bụng, hoặc để nấu chè
bưởi.
Vỏ hạt bưởi có thể trích lấy pectin làm thuốc cầm máu và dùng
như gôm chải tóc.
Dịch ép múi bưởi làm thuốc chữa tiêu khát, thiếu vitamin C
Bột than hạt bưởi có thể dùng chữa chốc đầu ở trẻ em.