đạI học công lập úc tại singapore, james cook university australia
3
1. 3) Chất lượng của dân cư
- Dân cư có trình độ học vấn cao. Tỉ lệ phổ cập giáo dục và
tốt nghiệp phổ thông trung học đứng hàng đầu thế giới.
- Chỉ số phát triển con người đứng hàng thứ 3 trên thế giới
và được nâng cao không ngừng
Là một trong 10 nước đứng đầu thế giới về lao động
kỹ thuật cao ( chuyên gia tin học và tài chính có
chất lượng cao )
- Có lượng khoa học trình độ cao
Thủ đô Ốttaoa của Canađa. Ảnh: Internet
Mỗi năm, tổng chi phí dành cho giáo dục của cả khu vực nhà nước và tư nhân tại Canađa
lên tới 2,5% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), mức cao thứ 4 trên thế giới. Chi phí dành cho
giáo dục đại học và cao đẳng chiếm 41% tổng chi phí dành cho giáo dục tại Canađa. Đứng
thứ 2 trong danh sách của OECD là Ixraen, với 45% dân số có trình độ đại học và cao đẳng;
tiếp theo là Nhật Bản - 44%; Mỹ - 41%; Niu Dilân - 40%; Hàn Quốc - 39%; và Nauy, Anh,
Ôxtrâylia và Phần Lan cùng 37%. Theo OECD, trong 50 năm qua, số người có trình độ đại
học và cao đẳng tại các nước phát triển đã tăng gần 200%. Đặc điểm chung của những
quốc gia có nhiều công dân có trình độ học vấn cao là cùng giàu có và đầu tư nhiều vào
giáo dục. Nhưng điều thú vị là tại những quốc gia có trình độ học vấn cao nhất, kinh phí của
nhà nước dành cho các tổ chức giáo dục so với chi phí của tư nhân là tương đối thấp so với
các nước khác trong OECD. Mười nước đứng đầu danh sách đã có các công dân có trình
độ học vấn cao từ lâu. Mỹ, Canađa và Nhật Bản có trên 30% dân số có trình độ đại học và
cao đẳng từ năm 1997. Nhưng mức tăng số người có trình độ học vấn cao tại các nước
phát triển là thấp hơn so với các nước đang phát triển. Ví dụ như tại Ba Lan, số người có
trình độ đại học và cao đẳng đã tăng từ mức 10% năm 1997 lên 21% vào năm 2009. Thanh
Hoa (P/v TTXVN tại Canađa)
he thống giáo dục phổ thông của ÚcỞ Australia, trẻ em bắt đầu đi học từ mẫu giáo hoặc năm
chuẩn bị lên lớp 1 và sau đó là 12 năm học phổ thông, tiểu học và trung học. Trong năm cuối
cùng của bậc trung học phổ thông, tức năm lớp 12, học sinh có thể học để lấy Bằng Tôt
Nghiệp Phổ Thông Trung Học. Đây là chứng chỉ do Chính Phủ cấp, được tất cả các trường đại
học, cơ sở giáo dục và đào tạo nghề ở Australia cũng như nhiều trường đại học quốc tế công
nhận.
Các môn học
Australia có một khung giáo trình quốc gia nhằm đảm bảo những tiêu chuẩn học
tập cao trên toàn quốc. Tất cả các trường phổ thông đều giảng dạy các môn học
trong 8 lĩnh vực học tập chính, đó là: Anh ngữ, toán, xã hội học và môi trường,
khoa học, nghệ thuật, các ngôn ngữ ngoài tiếng Anh, phát triển cá nhân, sức khỏe
2. và thể dục. Các trường còn có những chương trình Anh ngữ dành cho du học sinh
để hỗ trợ việc học tập của họ.
Ở bậc phổ thông trung học, có nhiều cơ hội lựa chọn và tính đa dạng cao vì các
trường giảng dạy nhiều môn học cùng với đội ngũ giảng viên có kinh nghiệm và
được đào tạo chuyên môn cao, sử dụng những công nghệ tiên tiến như Internet,
thiết bị đa truyền thông và các phòng thí nghiệm.
Nhiều học sinh theo học phổ thông trung học để đủ điều kiện ghi danh tại trường
đại học. Cứ 10 trường phổ thông Australia thì có tới 9 trường cung cấp các chương
trình giáo dục dạy nghề , bên cạnh chương trình phổ thông tiêu chuẩn
Niên học
Niên học ở trường phổ thông thường được chia thành 4 kỳ, bắt đầu từ cuối tháng
Một/đầu tháng Hai và kết thúc vào tháng Mười Hai. Học sinh có kỳ nghỉ ngắn giữa
các học kỳ, và nghỉ hè dài từ tháng Mười Hai đến tháng Một.
Mỗi tuần, học sinh đến trường từ thứ Hai đến thứ Sáu. Giờ học có thể thay đổi chút
ít tùy theo mỗi địa phương nhưng thường bắt đầu từ 9 giờ sáng đến 3 giờ 30 chiều.
Văn hóa và thể thao
Chương trình học bậc phổ thông ở Australia đáp ứng nhiều kỹ năng và sự ưa thích
của học sinh. Những kỹ năng như kịch, âm nhạc, nghệ thuật, tranh luận và phát
biểu trước công chúng cùng với những hoạt động thể thao cá nhân và đồng đội
được tăng cường nhờ các hoạt động hợp tác và thi đấu liên trường. Ngoài ra nhà
trường còn sắp xếp việc dạy kèm và có những chương trình giảng dạy ưu tú dành
cho du học sinh năng khiếu. Các trung tâm học tập chuyên biệt và các tiện nghi thể
thao mang đến một môi trường lý tưởng cho du học sinh học tập và phát triển cá
nhân. Việc tham gia nhiều môn thể thao và nghệ thuật đa dạng có thể giúp học sinh
phát triển các kỹ năng lãnh đạo và tổ chức cũng như rèn luyện sự tự tin và tính tự
lập.
Chương Trình Tú Tài Quốc Tế (International Baccalaureate)
Australia có 24 trường phổ thông công lập và tư nhân, giảng dạy chương
trình của Tổ Chức Tú Tài Quốc Tế (International Baccalaureate Organisation –
IBO). Chỉ những trường được ủy quyền chính thức của Tổ Chức Tú Tài Quốc
Tế (IBO) mới được phép cung cấp chương trình giảng dạy tiền đại học kéo
dài hai năm cho học sinh từ 16 đến 19 tuổi. Rất nhiều học sinh Australia và
nước ngoài đã theo đuổi chương trình tú tài quốc tế IB Diploma để đủ điều
kiện ghi danh vào các trường đại học nổi tiếng ở khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương. Tuy nhiên, những học sinh dự định theo đuổi chương trình dạy
nghề nên thảo luận với nhà trường về những chọn lựa của họ.
xuất sắc trong lãnh vực nghiên cứu
3. Các trường đại học tại Australia có đội ngũ giáo sư nổi tiếng trên thế giới về những
công trình nghiên cứu có chất lượng. Các trường đại học Australia còn đi đầu trong
việc đề xuất những sáng kiến mới và quan trọng, đồng thời đóng vai trò chính trong
các dự án và sáng kiến nghiên cứu quốc tế. Với nhiều thành tựu to lớn, Australia
đã nhận được tám Giải Thưởng Nobel trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và y học,
và một giải Nobel về văn chương. Australia còn là nước tiên phong trong những
lĩnh vực đầy thử thách như kỹ nghệ sinh học, năng lượng mặt trời, bào chế dược
phẩm và vật lý học thiên thể cũng như những ngành còn rất mới mẻ như công nghệ
nano và trí tuệ nhân tạo.
Chính Phủ Australia dành nguồn ngân sách dồi dào cho việc nghiên cứu ở bậc đại
học. Thông qua sang kiến “Ủng Hộ Tài Năng Quốc Gia” (“Backing Australia’s
Ability), một ngân sách trị giá 2,9 tỷ đô-la Australia sẽ được đầu tư trong năm năm
tới cho công tác nghiên cứu nhằm tài trợ cho những nghiên cứu góp phần thúc đẩy
tiến bộ khoa học và kinh tế. Hơn 140 triệu đô-la Australia sẽ được dùng để thành
lập chương trình Học Bổng Liên Bang (Federation Fellowships). Chương trình học
bổng này nhằm mục đích tuyển mộ các nhà nghiên cứu đẳng cấp thế giới đến
Australia làm việc. Mỗi năm sẽ có khoảng năm học bổng dành cho các nhà nghiên
cứu nổi tiếng nước ngoài.
Hơn 25% du học sinh ở các trường đại học Australia đăng ký chương trình sau đại
học. Hiện có khoảng 35 Trung Tâm Nghiên Cứu (Research Centres) đặc biệt,
Trung tâm Giảng Dạy và Nghiên Cứu Trọng Ðiểm (Key Centres of Teaching and
Research) đặt tại các trường đại học. Ngoài việc thực hiện những công trình nghiên
cứu cao cấp, các trung tâm này còn cung cấp các khóa học đa dạng ở bậc đại học,
sau đại học và giáo dục chuyên ngành trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngoài ra
Australia còn có 63 Trung Tâm Nghiên Cứu Hợp Tác (Cooperative Research
Centres) có chức năng thúc đẩy những công trình nghiên cứu chung giữa các
trường đại học và khu vực tư nhân.
Những tổ chức nghiên cứu khác được Chính Phủ Australia hỗ trợ gồm có:
• CSIRO, cơ quan nghiên cứu khoa học quốc gia
• Hội Đồng Nghiên Cứu Australia (Australian Research Council) là cơ quan quản lý
các khoản tài trợ trị giá 363 triệu đô-la Australia trong năm 2002-2003
• Trung Tâm Nghiên Cứu Y Khoa và Sức Khỏe Quốc Gia (National Health and
Medical Research Centre)
Bạn có thể ghé thăm khu mang của Bộ Cải Cách, Công Nghiệp, Khoa Học và
Nghiên Cứu (Department of Innovation, Industry, Science and Research) để biết
thêm chi tiết về những thành quả xuất sắc trong các lĩnh vực như cải tiến và công
nghệ
Hệ Thống Văn Bằng Úc - Australian
Qualifications Framework
4. Australia. Một quốc gia. Một hệ thống văn bằng
Điểm khác biệt của hệ thống giáo dục Australia so với nhiều quốc gia khác là Hệ Thống
Bằng Cấp Australia (Australian Qualifications Framework - AQF). Hệ thống AQF liên kết 15
loại văn bằng đại học, giáo dục dạy nghề và phổ thông thành một hệ thống quốc gia.
Hệ thống AQF cho phép học sinh chuyển cấp hoặc chuyển trường một cách dễ dàng miễn là
thỏa mãn các yêu cầu về thị thực du học. Điều này giúp sinh viên có được sư lựa chọn và
linh động trong việc lên kế hoạch cho sự nghiệp. Tất cả các văn bằng trong hệ thống AFQ
giúp sinh viên chuẩn bị cho việc học lên tiếp cũng như trong môi trường làm việc sau này.
Nếu bạn đang theo học một văn bằng trong hệ thống AQF, bạn có thể tin tưởng rằng cơ sở
giáo dục của bạn được Chính Phủ ủy quyền và được chứng nhận chất lượng trên toàn quốc,
cũng như bằng cấp của bạn hay các văn bằng trong hệ thống AFQ khác là thực.
Hệ thống AQF cũng tạo thuận lợi hơn cho bằng cấp của bạn được các chính phủ nước
ngoài công nhận. Khi các nhà tuyển dụng quốc tế nhìn thấy bằng cấp của bạn, họ biết rằng
bằng cấp đó đại diện cho: một nền giáo dục đẳng cấp thế giới trong một xã hội hiện đại, dân
chủ và công nghệ tiên tiến.
Công nhận kết quả học tập trước
Công nhận kết quả học tập trước (RPL) là một phần quan trọng trong Hệ thống AQF. Nói
một cách đơn giản, nếu bạn hội đủ những kỹ năng và kiến thức yêu cầu để nhập học hay có
đủ tín chỉ để được cấp văn bằng nhưng không có giấy tờ chứng minh thì bạn có thể tham dự
một cuộc thẩm định cá nhân. Nếu đạt kết quả tốt, bạn sẽ được cấp tín chỉ để nhận bằng.
Mặc dù tất cả các cơ sở giáo dục đều công nhận hệ thống AQF nhưng mỗi trường lại có
chính sách riêng về việc công nhận kết quả học tập trước. Bạn hãy liên hệ với cơ sở giáo
dục để biết thêm thông tin.
Sơ đồ dưới đây mô tả cơ cấu của hệ thống AQF, những lộ trình học tập điển hình và các
trang liên kết để biết thêm thông tin – bạn có thể tìm hiểu chi tiết bằng cách bấm chọn từng
văn bằng trên biểu đồ.
5. Thí dụ:
• cả hai đẳng cấp chuyên nghiệp & đào tạo và phổ thông có thể mở các khóa/môn dạy nghề
và đào tạo cho những học sinh theo đuổi Chứng Chỉ Tốt Nghiệp Phổ Thông và Chứng
Chỉ Nghề I-IV
• Học sinh tráng niên có thể ghi danh học Chứng Chỉ Tốt Nghiệp Phổ Thông tại một trường
chuyên nghiệp & đào tạo
• cả đại học lẫn các cơ sở giáo dục chuyên nghiệp & đào tạo đều có các khóa học ở trình độ
Văn Bằng Chuyên Nghiệp (Diploma) và Văn Bằng Chuyên Nghiệp Cao Cấp (Advanced
Diploma)
• các trường đại học và các trường cao đẳng có thể cấp các Chứng Chỉ Nghề I-IV
• các trường đào tạo và dạy nghề có thể liên kết với các trường đại học để cung cấp các
khóa học ở trình độ Cử Nhân cũng như Chứng Chỉ và Văn Bằng Hậu Ðại Học (Degree,
Graduate Certificate and Graduate Diploma)
Học tập các bằng cấp AQF có thể giúp học sinh chuyển tiếp đến các bằng cấp hoặc chứng
nhận được quốc tế công nhận. Những bằng cấp hay chứng nhận này thường có tính cách kỹ
nghệ chuyên môn.
6. Ðể biết thêm chi tiết và các thí dụ điển hình, quý vị có thể vào khu mạng (website)
của AQF để tìm hiểu xem các văn bằng AQF có thể giúp quý vị như thế nào trong việc chọn
lựa một khóa học thích hợp cũng như tìm việc làm, hay thay đổi nghề nghiệp, hoặc tiếp tục
đường hướng đã hoạch định.
Các Khóa Học Cơ Bản và Các Khóa Học Chuyển Tiếp
Hệ thống AQF bao gồm hầu hết các khóa học và các khóa đào tạo mà du học sinh, với chiếu
khán du học, ghi danh theo học. Tuy nhiên có một số khóa học dành cho học sinh quốc tế đã
được đăng ký với chính phủ Úc nhưng lại không nằm trong hệ thống AQF. Các khóa học
không nằm trong hệ thống AQF thường được biết dưới tên là Foundation Studies hoặc
Bridging tức Các Khóa Học Cơ Bản hoặc Các Khóa Học Chuyển Tiếp. Trong số các khóa
học này, có rất nhiều khóa học giúp học sinh hội đủ các điều kiện nhập cảnh để tiếp tục việc
học, hoặc có thể giúp học sinh theo đuổi và hoàn tất một văn bằng nằm trong hệ thống AQF.
Các khóa đào tạo Anh ngữ
Ngoài ra còn có một số các khóa huấn luyện Anh ngữ ở nhiều trình độ nhằm mục đích giúp
học sinh nâng cao trình độ Anh ngữ, hội đủ điều kiện của các cơ sở giáo dục, hoặc để chuẩn
bị thi các văn bằng Anh ngữ được quốc tế công nhận.
Các Loại Chứng Chỉ Trung Học Phổ Thông
Chứng Chỉ Tốt Nghiệp Trung Học Phổ Thông
(hai năm cuối bậc trung học)
Một số trường phổ thông có giảng dạy và cấp các Chứng Chỉ Nghề I-IV.
Chương trình giảng dạy bao gồm các môn học phổ thông và các khóa huấn nghệ nhằm chuẩn bị cho
học sinh thi vào các trường đại học, hoặc tiếp tục theo đuổi các chương trình đào tạo hay tìm kiếm
việc làm. Học sinh, ngoài việc dự lớp, còn phải làm các bài kiểm tra quy mô và tham dự các kỳ thi
chính thức. Ngoài ra học sinh cũng có thể làm một số bài kiểm tra chung. Tùy theo mỗi môn, học
sinh có thể cần vận dụng kỹ năng, chứng tỏ sự hiểu biết, hoặc tham dự các hoạt động như biểu
diễn, làm đề án, hoạt động theo nhóm hoặc đi thực tập.
Du học sinh có thể ghi danh theo học ở bất cứ trình độ giáo dục phổ thông nào như tiểu học, trung
học cơ sở, trung học phổ thông v.v... Tuy nhiên chỉ hai năm cuối của bậc trung học (nhằm hoàn tất
Chứng Chỉ Tốt Nghiệp Trung Học Phổ Thông) là nằm trong hệ thống AQF. Một số trường trung học
tại Úc đào tạo học sinh theo các tiêu chuẩn quốc tế, bao gồm cả kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ
thông quốc tế (International Baccalaureate).
Tại mỗi Tiểu Bang và Lãnh Thổ, Bằng Tốt Nghiệp Trung Học Phổ Thông được gọi bằng một số tên
khác nhau:
7. Các loại Chứng Chỉ Tốt Nghiệp Trung Học Phổ Thông tại Úc
Australian Capital Territory
(ACT)
ACT Year 12 Certificate
New South Wales (NSW) Higher Education Certificate (HSC)
Northern Territory (NT) Northern Territory Certificate of Education (NTCE)
Queensland (QLD) Senior Certificate
South Australia (SA) South Australian Certificate of Education (SACE)
Tasmania (TAS) Tasmanian Certificate of Education (TCE)
Victoria (VIC) Victorian Certificate of Education (VCE)
Western Australia (WA) WA Certificate of Education
trở về đầu trang
Các loại văn bằng đào tạo và dạy nghề
Các loại bằng cấp do các cơ sở giáo dục dạy nghề và đào tạo bao gồm các Chứng Chỉ Nghề
I-IV, Văn Bằng Chuyên Nghiệp và Văn Bằng Chuyên Nghiệp Cao Cấp (Certificate I-IV,
Diploma và Advanced Diploma)
Chứng Chỉ Nghề cấp I – Certificate I 4-6 tháng
Chứng Chỉ Nghề cấp I chuẩn bị cho học sinh đảm trách một số hoạt động có tính cách thông lệ và
được định rõ rệt. Các ứng dụng của Chứng Chỉ Nghề cấp I bao gồm một số các kỹ năng có liên
quan đến công việc kể cả kỹ năng truy tìm và tham gia, các kỹ năng hướng dẫn bao quát và có thể
bao gồm các kỹ năng trong môi trường làm việc theo nhóm.
trở về đầu trang
Chứng Chỉ Nghề cấp II - Certificate II 6-8 tháng
Chứng Chỉ Nghề cấp II trang bị cho học sinh kiến thức và những kỹ năng chuyên môn để có thể thực
8. hiện một số công việc khác nhau, hoặc giúp học sinh áp dụng kiến thức trong những tình huống nhất
định và mỗi tình huống đều có một số chọn lựa được xác định rõ rệt. Học sinh sẽ phải chịu trách
nhiệm phần nào về chất lượng kết quả thực hiện. Các ứng dụng có thể bao gồm một số công việc
phức tạp hoặc các công việc mới lạ đòi hỏi trách nhiệm của mỗi cá nhân có thể được thể hiện qua
tinh thần làm việc đồng đội.
trở về đầu trang
Chứng Chỉ Nghề cấp III - Certificate III 12 tháng
Chứng Chỉ Nghề cấp III trang bị cho học sinh một khả năng chuyên môn và kiến thức sâu rộng trong
việc chọn lựa, thích nghi và đem kiến thức cũng như các kỹ năng chuyên môn sang ứng dụng trong
các môi trường mới. Học sinh cũng có khả năng đưa ra những ý kiến chuyên môn và có thể đứng ra
giải quyết một số vấn đề trong một số môi trường làm việc khá phức tạp đi đôi với những giải pháp
khác nhau.
Học sinh sẽ đủ khả năng thực hiện một số thao tác chuyên môn. Các thao tác này thường nằm trong
các hoạt động bao quát hơn, có liên quan đến các tập quán, phương pháp và thủ tục làm việc. Học
sinh sẽ phải vận dụng ít nhiều khả năng phán đoán và quyết định trong trường hợp phải lựa chọn
thiết bị, dịch vụ cũng như các biện pháp phòng hờ trong một thời gian nhất định. Các ứng dụng có
thể bao gồm việc nhận lãnh trách nhiệm chung. Học sinh có thể thực tập theo đội và được giao trách
nhiệm phối hợp một số hoạt động của nhóm hoặc đội.
trở về đầu trang
Chứng Chỉ Nghề cấp IV - Certificate IV 12-18 tháng
Chứng Chỉ Nghề cấp IV trang bị cho học sinh một khả năng chuyên môn và kiến thức sâu rộng bao
gồm nhiều hoạt động khác nhau trong những tình huống phức tạp và không theo một tập quán nhất
định. Học sinh có thể chứng tỏ khả năng lãnh đạo và hướng dẫn bản thân cũng như người khác, và
đồng thời có khả năng đưa ra hướng giải quyết chuyên môn cho các vấn đề không theo tập quán
thông thường hoặc trong những tình huống bất ngờ.
Học sinh cũng phải chứng tỏ khả năng thi hành phận sự trong công việc đòi hỏi những ứng dụng
chuyên môn khác nhau như đánh giá và phân tích các tập quán làm việc hiện thời, phát triển các tiêu
chuẩn và phương pháp làm việc mới cho những công việc hiện tại. Ngoài việc chứng tỏ khả năng
lãnh đạo và hướng dẫn, học sinh còn phải nhận lãnh trách nhiệm cho những người khác và chứng
tỏ một số khả năng chuyên môn trong việc tổ chức.
trở về đầu trang
Văn Bằng Chuyên Nghiệp - Diploma 18-24 tháng
Một số trường đại học cũng mở các khóa học cho trình độ Văn Bằng Chuyên Nghiệp.
Chương trình học trang bị cho học sinh các kiến thức và khả năng chuyên môn sâu rộng trong các
lãnh vực như đặt kế hoạch, đề xướng các phương thức mới cho việc ứng dụng kỹ năng chuyên môn
hay kiến thức nhằm thỏa mãn các yêu cầu về quản lý và/hoặc chuyên môn. Ngoài ra học sinh còn
9. được trang bị khả năng và kiến thức sâu rộng trong lãnh vực đánh giá và điều phối. Các học sinh tốt
nghiệp Văn Bằng Chuyên Nghiệp sẽ có đủ khả năng để tự áp dụng kiến thức và kỹ năng chuyên
môn trong một số lãnh vực đòi hỏi phải có trình độ cao, tức là trình độ mà học sinh có thể phán đoán
khi cần phải hoạch định và chọn lựa trang thiết bị, các dịch vụ và các kỹ thuật thích hợp. Trong thời
gian học, học sinh sẽ tham gia vào việc phát triển các chiến lược đề xướng, nhận lãnh trách nhiệm
cá nhân và tự mình thực hiện các hoạt động chuyên môn và phức tạp, hoặc sắp xếp, tổ chức công
việc cho người khác. Học sinh cũng tham gia các công việc có tính cách thường xuyên, tham dự
việc lên kế hoạch và đánh giá theo từng nhóm từng đội và đôi khi làm công tác phối hợp nhóm.
trở về đầu trang
Văn Bằng Chuyên Nghiệp Cao Cấp - Advanced Diploma 2-3 năm
Một số trường đại học cũng mở các khóa học cho trình độ Văn Bằng Chuyên Nghiệp Cao Cấp.
Chương trình học trang bị cho học sinh các kiến thức và khả năng chuyên sâu cho việc phân tích,
chẩn đoán, thiết kế, lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá đối với các chức năng có liên hệ về mặt
quản lý và/hoặc chuyên môn. Học sinh cũng học hỏi các kỹ năng chuyên môn như ấn định các tiêu
chuẩn, ứng dụng, kiến thức hoặc các thủ tục mới. Học sinh sẽ được học cách áp dụng những
nguyên tắc cơ bản, những kỹ thuật phức tạp có liên hệ đến những chức năng chuyên biệt hoặc khác
nhau trong những tình huống thay đổi. Ngoài ra học sinh còn tham gia vào việc khai triển kế hoạch
tổng quát, ngân sách hay chiến lược. Học sinh cũng học hỏi để biết rõ phận sự và nhận trách nhiệm
thực hiện mục tiêu cho chính bản thân và người khác.
trở về đầu trang
Chứng Chỉ Tốt Nghiệp Nghề (Vocational Graduate
Certificate)
Một số trường đại học cũng tổ chức những khóa Chứng Chỉ Tốt Nghiệp Nghề.
Khóa học này có liên quan đến việc tự phát triển và đạt được những kiến thức và kỹ năng
trong các lãnh vực bao quát hoặc chuyên biệt dựa vào những kiến thức và kỹ năng đã có
sẵn.
Chương trình có liên quan đến bề rộng, chiều sâu và sự phức tạp của các chức năng kỹ
thuật và/hoặc quản lý, bao gồm các giai đoạn khởi đầu, phân tích, thiết kế, lên kế hoạch,
thực hiện và đánh giá trong những phạm vi mang tính thay đổi và/hoặc chuyên môn cao.
Các ứng dụng có liên quan đến việc đưa ra những phán đoán quan trọng, có trình độ cao và
độc lập trong những chức năng, bao gồm các giai đoạn lên kế hoạch, thiết kế, điều hành, kỹ
thuật và quản lý chuyên môn trong những phạm vi mang tính thay đổi và/hoặc chuyên môn
cao. Nó có thể bao gồm việc chịu trách nhiệm và đảm trách một số nhiệm vụ có liên quan
đến cấu trúc, quản lý và công suất làm việc của những người khác và/hoặc những chức
năng khác.
10. trở về đầu trang
Văn Bằng Tốt Nghiệp Nghề (Vocational Graduate
Diploma)
Một số trường đại học cũng tổ chức những khóa Văn Bằng Tốt Nghiệp Nghề.
Khóa học này có liên quan đến việc tự phát triển và đạt được những kiến thức và kỹ năng
trong các lãnh vực bao quát hoặc chuyên biệt dựa vào những kiến thức và kỹ năng đã có
sẵn.
Chương trình có liên quan đến bề rộng, chiều sâu và sự phức tạp của những chức năng
chính mang tính bao quát và/hoặc chuyên môn cao trong các giai đoạn khởi đầu, phân tích,
thiết kế, lên kế hoạch, thực hiện và đánh giá trong các phạm vi mang tính thay đổi và/hoặc
chuyên môn cao.
Các kỹ năng bao gồm việc đưa ra những phán đoán ở trình độ cao, hoàn toàn độc lập và
phức tạp trong những chức năng kỹ thuật và/hoặc quản lý mang tính bao quát và/hoặc
chuyên môn cao, bao gồm các giai đoạn lên kế hoạch, thiết kế và điều hành trong các phạm
vi mang tính thay đổi và/hoặc chuyên môn cao. Nó có thể bao gồm việc chịu trách nhiệm
hoàn toàn và đảm trách một số nhiệm vụ về mọi mặt đối với việc làm của những người khác
và những chức năng, bao gồm việc lên kế hoạch, tính toán ngân sách và chiến lược.
trở về đầu trang
Các bằng cấp bậc đại học
Các trường đại học và các cơ sở giáo dục cao đẳng được công nhận tại Úc có các khóa học
với các loại bằng cấp sau:
Bằng Phó Cử Nhân – Associate Degree 2 năm
Bằng Phó Cử Nhân là văn bằng kéo dài 2 năm. Học sinh có thể ghi danh theo học văn bằng này sau
khi học sinh hoàn tất lớp 12, hoặc Chứng Chỉ Nghề III hoặc IV. Đây là văn bằng thứ cấp cho phép
sinh viên hòan tất trong thời gian ngắn hơn chương trình cử nhân. Với văn bằng này, sinh viên có
thể tiếp tục chuyển sang chương trình cử nhân nhằm học hỏi các nguyên tắc và khái niệm một cách
chi tiết và chuẩn bị chuyên môn, hoặc tiếp tục chuyển sang chương trình Văn Bằng Chuyên Nghiệp
Cao Cấp nhằm học hỏi những kỹ năng chuyên nghiệp.
Chương trình học liên quan đến những kiến thức cơ bản theo chiều hướng nghiên cứu của một lãnh
vực học tập. Nội dung về mặt khái niệm và lý thuyết được hướng dẫn một cách khái quát, thường
bao gồm nhiều ngành học và phát triển kỹ năng phổ thông cho những công việc có liên quan đến
các ngành này.
Chương trình Phó Cử Nhân có mở tại các trường đại học, các cơ sở giáo dục cao đẳng tự công
11. nhận và tại các trường cao đẳng và chuyên nghiệp (tư nhân và công lập) hội đủ các điều kiện
chuyên biệt.
trở về đầu trang
Bằng Cử Nhân – Bachelor Degree
Bằng Cử Nhân (Danh Dự) – Bachelor Degree
(Honours)
Tối thiểu 3 năm
4 năm
Bằng Cử Nhân là văn bằng cơ bản cấp đại học và cũng là văn bằng cơ bản để được xếp vào thành
phần chuyên nghiệp. Tuy nhiên, có một số nghề nghiệp đòi hỏi phải có thêm một số bằng cấp
chuyên môn phụ thì mới được công nhận.
Chương trình học đòi hỏi học sinh phải thu thập kiến thức một cách có hệ thống và mạch lạc, học hỏi
chi tiết các nguyên tắc và các khái niệm cũng như các phương thức giải quyết vấn đề liên hệ. Học
sinh sẽ phát triển các khả năng đặt nặng vấn đề lý thuyết và quan điểm để có thể thông hiểu và đánh
giá các thông tin, khái niệm và chứng cớ mới từ nhiều nguồn khác nhau. Ngoài ra học sinh còn phát
triển khả năng xem xét lại, củng cố, nới rộng và áp dụng các kiến thức cũng như các kỹ thuật đã
học.
Chương trình học thường liên quan đến những môn học chính trong một lãnh vực có sẵn sách vở và
tài liệu, và chương trình học cũng giúp học sinh đào sâu vào các đề tài chuyên môn và phát triển đến
một trình độ cao hơn, và chuẩn bị cho học sinh tiếp tục theo đuổi việc học ở bậc hậu đại học nếu
muốn.
Sau khi đã tốt nghiệp Cử Nhân, học sinh có thể tiếp tục học thêm một năm nữa để lấy Bằng Cử
Nhân Danh Dự. Học sinh theo học các khóa học cử nhân kéo dài 4 năm hoặc lâu hơn cũng có thể
được cấp Bằng Cử Nhân Danh Dự nếu đạt kết quả xuất sắc trong suốt thời gian theo học.
trở về đầu trang
Chứng Chỉ Hậu Ðại Học – Graduate Certificate 6 tháng
Ðể lấy Chứng Chỉ Hậu Ðại Học, thông thường sinh viên phải trau dồi khả năng chuyên môn đã được
rèn luyện trong chương trình đại học, hoặc phát triển kiến thức và tay nghề chuyên môn của một
ngành nghề khác.
trở về đầu trang
Văn Bằng Hậu Ðại Học – Graduate Diploma 12 tháng
12. Ðể lấy Văn Bằng Hậu Ðại Học, thông thường sinh viên phải trau dồi khả năng chuyên môn đã được
rèn luyện trong chương trình đại học, hoặc phát triển kiến thức và tay nghề chuyên môn của một
ngành nghề khác. Văn bằng này có thể được mô tả như là một văn bằng dành cho sinh viên có trình
độ chuyên môn cao hơn nhờ biết thu thập kiến thức một cách có hệ thống và mạch lạc.
trở về đầu trang
Bằng Thạc Sĩ – Masters Degree 1-2 năm
Ðể lấy bằng Thạc Sĩ, sinh viên cần phải nâng cao khả năng hoặc nghề nghiệp chuyên môn. Học sinh
có thể lấy bằng Thạc Sĩ qua công trình nghiên cứu, hoặc kết hợp giữa việc học và nghiên cứu. Theo
lệ thường, chương trình học đòi hỏi sinh viên phải trau dồi kiến thức chuyên môn qua việc tự khảo
cứu.
Thời gian học lấy Bằng Thạc Sĩ là một năm cho những học sinh đã tốt nghiệp Bằng Cử Nhân Danh
Dự, hoặc 2 năm cho những học sinh chỉ tốt nghiệp Bằng Cử Nhân.
trở về đầu trang
Bằng Tiến Sĩ – Doctoral Degree điển hình 3 năm
Bằng Tiến Sĩ là văn bằng cao nhất do các trường đại học tại Úc cấp. Mặc dù đây là văn bằng chuyên
về nghiên cứu, một số chương trình tiến sĩ, ngoài công trình nghiên cứu, còn có các môn học kèm
theo. Bằng Tiến Sĩ gồm có 3 phần:
1. Một bản báo cáo về công trình nghiên cứu, thí nghiệm hoặc một phương pháp
tiếp cận mới có hệ thống cho một lãnh vực nào đó.
2. Một công trình nghiên cứu nguyên thủy mà kết quả nghiên cứu đã có sự đóng
góp quan trọng về mặt kiến thức và sự hiểu biết và/hoặc ứng dụng của kiến
thức này trong một chuyên ngành hoặc một lãnh vực học tập nào đó.
3. Một luận án có trình tự và đầy đủ chi tiết chứng minh mối liên hệ của công trình
nghiên cứu đối với một chuyên ngành hoặc lãnh vực học tập trên một bình diện
rộng lớn.
Đất nước Australia xinh đẹp nổi tiếng với hệ thống các trường đại học đào
tạo về công nghệ thông tin. Dưới đây là danh sách một số trường nổi tiếng
trong lĩnh vực này mà Megastudymuốn giới thiệu với các bạn sinh viên.
1. Đại học Charles Sturt
ĐH Charles Sturt, Australia có chương trình thạc sĩ và cử nhân công
nghệ thông tin được ACS (Australian Computer Society) công nhận đạt
tiêu chuẩn chuyên nghiệp về mặt nội dung, kỹ năng của giáo viên,
chất lượng và cơ sở vật chất phục vụ cho việc giảng dạy.
13. Trong các trường đại học định hướng đào tạo mang tính ứng dụng cao,
Charles Sturt University (CSU) là trường đại học nhiều năm liền được
Good Universities Guide xếp hạng cao về tỷ lệ sinh viên sớm có việc
làm sau khi tốt nghiệp và mức lương khởi điểm tốt dành cho sinh viên
mới tốt nghiệp.
Học phí của trường từ 16.720 AUD đến 18.912 AUD mỗi năm học (tùy
bậc đào tạo). Đại học CSU đồng thời là Học viện Cisco, nơi chuyên đào
tạo sinh viên những kỹ năng thực tế về thiết bị mạng. Sinh viên hoàn
tất thành công chương trình sẽ được cấp chứng chỉ Cisco Networking
và được trang bị kiến thức cần thiết để thi lấy chứng chỉ CCNA
(Certified Cisco Networking Associate).
Với 3 kỳ nhập học hằng năm (tháng 2, 7 và 11) sinh viên có thể bắt
đầu học vào bất cứ thời điểm nào trong năm, nhờ đó thúc đẩy nhanh
hơn việc học của mình để sớm chuyển tiếp vào các chương trình học
cao hơn hay nhanh chóng gây dựng sự nghiệp.
2. Đại học Victoria
Đại học Victoria được thành lập từ năm 1916 tại Melbourne với tên ban
đầu là Trường Kỹ Thuật Footscray. Năm 1990 trường chính thức mang
tên đại học Victoria. Hiện nay trường có 47,000 sinh viên trong đó có
11,800 sinh viên quốc tế.
Chương trình đào tạo của trường rất đa dạng, bao gồm các chuyên
ngành: Công nghệ thông tin, Kế toán, Tài chính, Kinh doanh, Du lịch
khách sạn, Điều dưỡng, Thể thao, Kiến trúc, Sinh học tế bào, Nghệ
thuật, truyền thông, Khoa học xã hội, Luật, Quản lý, Kĩ sư, Giáo dục,
Kinh tế ứng dụng…
- Chương trình học của Đại học Victoria tại Sydney được giảng dạy tại
Trung tâm Giáo dục Úc (Education Centre of Australia – ECA) từ tháng
8 năm 2008 với 2 chuyên ngành chính là Khoa học máy tính và Kế
toán.
Học phí: AUD 5,000 – AUD10,500/ năm
3. Đại học Swinburne
Trường Đại học Kỹ thuật Swinburne là trường Đại học tốt nhất
Melbourne về chất lượng giảng dạy, các kỹ năng chung và chương
trình đào tạo Thạc sĩ (Theo Good University Guide 2008).
Được thành lập vào 1908, Đại học Swinburne là một số ít trong những
trường đại học công ở Úccung cấp cả giáo dục Đại học, Sau đại học và
các khóa học TAFE, hiện trường có khoảng 7000 sinh viên quốc tế đến
từ hơn 100 quốc gia đang theo học. Trường có năm phân viện giảng
dạy tại bang Victoria - Hawthorn, Croydon, Prahran, Lilydale, Wantirna
và một phân hiệu quốc tế ở Sarawak, Malaysia.
Theo tạp chí Australian, Swinburne 3 năm liền đứng trong top 10 trường
Đại học hàng đầu Úc cùng với các trường Đại học trong Group of Eight
về chất lượng giảng dạy và học tập, mức độ hài lòng của sinh viên sau
tốt nghiệp cùng với đánh giá năm sao cho sự đa dạng văn hóa vào
14. năm 2011. Trường cũng nằm trong top 3 trường Đại học đứng đầu về
chất lượng nghiên cứu ở Melbourne.
Các lĩnh vực học tập hiện có tại Swinburne bao gồm: Khoa học Ứng
dụng và Công nghệ, Kinh doanh, Đổi mới và Quản trị, Thiết kế, Máy
tính và Công nghệ Thông tin, Công trình và Kỹ thuật, Điện ảnh và
Truyền hình, Khách sạn và Du lịch, Tâm lý học và Dịch vụ Nhân sinh,
Truyền thông Đa phương tiện…
Học phí: AUD 14,000 – AUD 25,000/ năm
4. Đại học Curtin
Đại học Curtin được thành lập năm 1966, là học viện công nghệ nằm
phía tây nước ÚC, được đổi tên thành trường đại học công nghệ
CURTIN năm 1987.
Có khoảng 10.000 sinh viên quốc tế đến từ 120 quốc gia trên thế giới,
học tập tại Perth, Sydney và một số địa điểm khác tại nước ÚC. Đại
học Công nghệ Curtin có uy tín lâu dài và bền vững trên toàn thế giới
đồng thời là một nhà cung cấp giáo dục quốc tế hàng đầu. Curtin tự
hào về tính chất thực tiễn của các khóa học trong nhà trường, các sinh
viên Curtin đạt được nhiều kỹ năng cần thiết mà các nhà tuyển dụng
yêu cầu.
Học phí: AUD 18,000 – AUD 37,000/ năm (tùy từng chuyên ngành)
5. Đại học Công nghệ Sydney
Đại học Công nghệ Sydney (UTS) nổi tiếng với vị trí nằm ngay tại khu
trung tâm Sydney. Trường là thành viên “Mạng lưới các trường đại học
công nghệ Úc” và có lượng học sinh theo học đông thứ 5 tại Sydney.
15. UTS xếp hạng 234 trong số 500 đại học hàng đầu thế giới theo đánh
giá của Times HES (2008) và là một trong hai đại học của Úc được Ủy
ban giáo dục Liên bang Úc xếp hạng A1 cho tất cả các chuyên ngành
trong các năm 2007, 2008.
6. Học viện công nghệ Melbourne
Học viện công nghệ Melbourne (MIT) là một trong những học viện nổi
tiếng được đặt tại trung tâm hai thành phố lớn của Australia là
Melbourne và Sydney. Với truyền thống xuất sắc về chất lượng giảng
dạy và học tâp trong lĩnh vực công nghệ thông tin và kinh doanh, đại
học Ballarat uỷ quyền cho viện MIT giảng dạy các khoá học cao đẳng,
đại học, thạc sĩ về kinh doanh và công nghệ thông tin tại thành phố
Melbourne. Sau khi hoàn thành các khoá cao đẳng, sinh viên có thể
chuyển tiếp lên năm thứ hai chương trình cử nhân của đại học
Ballarat. Sinh viên hoàn thành xuất sắc khoá cao đẳng 8 tháng của
MIT có thể chuyển thẳng vào năm thứ hai chương trình cử nhân của
đại học Ballarat.
Học viện chuyên cung cấp các khóa học trong các lĩnh vực kinh doanh,
kế toán, công nghệ thông tin, hệ thống máy tính, kỹ thuật truyền
thông từ bậc cao đẳng liên thông, cử nhân, văn bằng sau đại học và
thạc sĩ.
Học phí: AUD 6,500 – AUD 7,500/ kỳ
Tổng quát [sửa]
Australia là một trong những nước tư bản có nền kinh tế tự vận hành theo chỉ số tự do kinh
tế. Australia có GDP trên đầu người là cao hơn một chút so với các quốc gia
như Anh, Đức và Pháp trong điều kiện với sức mua tương đương. Australia được xếp hạng thứ
tư trong Liên Hiệp Quốc năm 2008 vềphát triển con người và đứng thứ sáu trong The
Economist về chỉ số chất lượng của đời sống trên toàn thế giới năm 2005.
Việc nhấn mạnh hơn về tầm quan trọng của xuất khẩu hàng hoá hơn là củng cố các nhà sản
xuất đã gia tăng đáng kể về mặt thương mại của Australia trong thời kỳ tăng giá hàng hóa từ
năm 2000. Ngân sách hiện tại của Australia là hơn 7% của GDP âm: Australia đã liên tục có
những thâm hụt ngân sách hiện tại lớn trong hơn 50 năm.[2]
Australia đã tăng trưởng bình quân
hàng năm là 3,6% trong hơn 15 năm, cũng ở trên mức trung bình của OECD là 2,5%.[2]
Trong tháng 1 năm 2007, đã có 10.033.480 người có việc làm , với một tỷ lệ thất nghiệp 4,6%.
[3]
Trong những thập kỷ vừa qua, lạm phát đã thường được ở mức 2-3% và các mức lãi suất cơ
bản là 5-6%. Các ngành dịch vụ của nền kinh tế, bao gồm du lịch, giáo dục và dịch vụ tài chính,
đóng góp 69% trong GDP.[4]
Mặc dù ngành nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên chỉ đóng góp tương ứng là 3% và 5%
trong GDP, nhưng chúng góp phần đáng kể vào hiệu suất xuất khẩu.Australia là thị trường xuất
khẩu lớn nhất của Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ,Hàn Quốc và New Zealand.[5]
Giàu tài nguyên thiên nhiên, Australia là một nước xuất khẩu lớn về sản phẩmnông nghiệp, đặc
biệt là mì và len, những khoáng sản như quặng sắt và vàng, và năng lượng trong các hình
16. thức khí thiên nhiên hóa lỏng và than. Australiacó một lực lượng lao động khoảng mười triệu
người.[6]
Trong thập kỷ vừa qua, một trong những xu hướng quan trọng nhất ngành kinh nghiệm của các
nền kinh tế đã được sự tăng trưởng (trong điều kiện tương đối) của khu vực khai thác khoáng
sản (bao gồm cả dầu mỏ). Trong điều kiện đóng góp vào GDP, khu vực này đã tăng từ khoảng
4,5% trong năm 1993-1994, đến gần 8% trong năm 2006-2007.
Tăng trưởng trong lĩnh vực dịch vụ cũng đã tăng trưởng đáng kể, với bất động sản và kinh doanh
các dịch vụ nói riêng ngày càng tăng từ 10% đến 14,5%GDP so với cùng kỳ, khiến nó trở thành
phần lớn nhất trong GDP (trong điều kiện ngành). Sự tăng trưởng này có được phần lớn tại các
chi phí của ngành sản xuất, mà trong năn 2006-2007 chiếm khoảng 12% GDP. Một thập kỷ trước
đó, nó là thành phần kinh tế lớn nhất trong nền kinh tế, chiếm chỉ hơn 15%GDP.[7]
Kinh tế tự do [sửa]
Từ đầu những năm 1980 trở đi, kinh tế Australia đã tiếp tục thực hiện theo nền kinh tế tự do.
Trong năm 1983, dưới thời thủ tướng Bob Hawke, đồng đô la Úcđược thả nổi và chính sách tài
chính khôn khéo bãi bỏ sự điều tiết được đưa vào thực hiện. Đầu những năm 1990 cho thấy nền
kinh tế Australia lâm vào thoái trào và nợ của chính phủ tăng lên tới $96 tỷ dưới thời thủ
tướng Paul Keating.
Món nợ $96 tỷ của chính phủ đã được thanh toán đầy đủ vào giữa những năm1996 và 2007 bởi
chính phủ theo đường lối tự do của thủ tướng John Howardvà giám đốc ngân hàng Peter
Costello. Trong suốt thời kỳ lãnh đạo, giới thiệu thuế hàng hóa và dịch vụ (GST) tìm cách khuyến
khích mức độ tiết kiệm giữa người có thu nhập thấp. Để chống lại những hậu quả trong giảm tiêu
thụ cho người thu nhập thấp, thuế thu nhập đã được hạ xuống như là một sự đánh đổi cho việc
giới thiệu GST. Tổng mức thuế tại Australia từ đó đã được giảm xuống một cách nhất quán để
khuyến khích tiêu thụ tư nhân và đầu tư, trái với chi tiêu của chính phủ cao hơn.
Hiện tại các khu vực quan tâm đến một số nhà kinh tế lớn của Australia bao gồm thâm hụt ngân
sách hiện tại, thâm hụt ngân sách hiện tại của Australia trong năm 2007 - 2008 năm tài chính đã
được lên 4% đến $ 19,49 tỷ đồng (theo Cục Thống kê), việc thiếu thành công trong xuất khẩu
theo định hướng sản xuất công nghiệp, một bong bóng bất động sản, và các khoản nợ lớn từ
nước ngoài của khu vực tư nhân.
Lịch sử [sửa]
Bài chi tiết: Lịch sử kinh tế Australia
Thuế [sửa]
Bài chi tiết: Thuế ở Australia
Xem thêm: Thuế thu nhập tại Australia và Thuế hàng hóa và dịch vụ (Australia)
Thuế ở Australia là được trưng thu ở liên bang, nhà nước và chính quyền địa
phương các cấp. Các loại thế là khác nhau tuỳ theo mỗi tiểu bang do những nhu
cầu khác nhau của họ, nhóm dân cư, kinh tế và ngân sách các khu vực.
17. Khối thịnh vượng chung tăng thu nhập từ thuế thu nhập cá nhân và thuế kinh
doanh. Các loại thuế khác nhau bao gồm Thuế hàng hóa và dịch vụ (GST), thuế tiêu
thụ và nhiệm vụ hải quan. Khối thịnh vượng chung là nguồn thu nhập chính cho các
chính phủ tiểu bang. Là kết quả của sự phụ thuộc của Nhà nước về thu thuế liên
bang để đáp ứng trách nhiệm chi phi tập trung, Australia bị nói đến là chịu thiệt hại
từ một mất cân đối tài chính dọc.
Thuế nhà nước [sửa]
Ngoài ra biên lai của các quỹ từ Khối thịnh vượng chung, tiểu bang và vùng lãnh thổ
cũng có các loại thuế riêng của họ để kích hoạt chúng để tài trợ cho các dịch vụ mà
họ cung cấp. Các loại và mức thuế suất khác nhau từ nhà nước/vùng lãnh thổ tới
nhà nước/vùng lãnh thổ. Thuế của nhà nước bao gồm thuế theo lương đánh vào
các doanh nghiệp, một máy xi đánh thuế trên các doanh nghiệp những người cung
cấp dịch vụ đánh bạc, thuế đất được trưng thu về người dân và doanh nghiệp sở
hữu đất đai và phần lớn đáng kể,thuế trước bạ được trưng thu trên doanh thu của
đất (ở mỗi tiểu bang) và các hạng mục khác (những vật sở hữu ở một số tiểu bang,
không công bố cổ phần trong những người khác, và thậm chí cả doanh thu của hợp
đồng trong một số tiểu bang).
Chính phủ liên bang - sắp xếp tài chính nhà nước [sửa]
Các tiểu bang bị mất quyền được trưng thu thuế thu nhập trong quá trình thế chiến
thứ hai, sau đây là người đầu tiên Uniform Tax Case (South Australia v
Commonwealth) của năm 1942. Trong khi các tiểu bang giữ lại khả năng hoạt động
cơ quan thuế, Khối thịnh vượng chung cho rằng thành công sự kết hợp của các
phần 51(ii) của Hiến pháp (thuế điện) và 109 (không thống nhất của pháp luật) được
hiểu là Khối thịnh vượng chung có thể làm luật để có thể trưng thu thuế, để loại trừ
việc các tiểu bang thực hiện việc đó.
Phán quyết này đã được tôn trọng ở Ha vs. New South Wales trong trường hợp của
năm 1987[cần dẫn nguồn]
, và đã dẫn đến một trong những phát âm là hầu hết các sự mất
cân bằng dọc tài chính trên thế giới, với các tiểu bang thu thập chỉ 18% của tất cả
các nguồn thu của chính phủ chịu trách nhiệm về nhưng gần 50% tổng chi tiêu và
các lĩnh vực chính sách.
Thuế đô thị [sửa]
Chính quyền địa phương (gọi là hội đồng thành phố ở Australia) có thuế riêng của
họ (called rates) cho phép họ cung cấp dịch vụ thu gom rác, các dịch vụ bảo trì công
viên, thư viện và các viện bảo tàng,...
Thương mại và hiệu quả kinh tế [sửa]
18. Xuất khẩu của Australia trong năm 2006
Trong nửa cuối thế kỷ 20, thương mại của Australia dịch chuyển từ Châu Âu và Bắc
Mỹsang Nhật Bản và các thị trường Đông Á khác. Khu vực doanh nghiệp nhượng
quyền thương mại, bây giờ là $ 128 tỷ của khu vực, đã được điều hành co-branded
sites ở nước ngoài trong nhiều năm qua, với các nhà đầu tư mới đến từ Tây
Australia và Queensland.[8]
Kinh tế Australia đã thực hiện trên danh nghĩa tốt hơn so với các nền kinh tế
của OECD và đã hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong 16 năm liên tiếp.[9]
Theo Reserve
Bank of Australia,Australia có tăng trưởng GDP bình quân đầu người cao hơn
của New Zealand, Hoa Kỳ,Canada và Hà Lan.[10]
Hiệu suất trước đây của nền kinh
tế Australia đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ, Nhật
Bản và Trung Quốc.
Mặc dù có nhu cầu cao trên toàn cầu với hàng hóa khoáng sản của Australia, tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu vẫn còn bằng lặng so với tốc độ tăng trưởng mạnh của nhập
khẩu. Mặc dù Australia thích giá cả hàng hóa cao, các nhà kinh tế đã cảnh báo rằng
thay đổi cấu trúc là cần thiết để tăng kích thước của khu vực kinh tế sản xuất.
Trung quốc đầu tư [sửa]
Có một lượng đáng kể xuất khẩu sang Trung Quốc là quặng sắt, len, và các nguyên
vật liệu và hơn 100,000 du học sinh Trung Quốchọc tập tại trường học và đại học
tại Australia. Trung Quốc là nước mua nợ chính của Australia. Trong năm 2009,
cung cấp được thực hiện bởi doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc để đầu tư 22 tỷ
đô la trong ngành công nghiệp khai thác nguồn tài nguyên củaAustralia.[11]
Cán cân thanh toán của Australia [sửa]
Bài chi tiết: Cán cân thanh toán của Australia
Trong điều kiện thương mại, kinh tế Australia đã liên tục có những thâm hụt
ngân sách hiện hành trong hơn 50 năm.[2]
Chỉ một yếu tố đó làm giảm cán cân
thanh toán là thu hẹp xuất khẩu cơ sở của Australia.
Phụ thuộc vào hàng hóa, chính phủ Australia lo toan để phát triển khu vực sản
xuất của Australia. Sáng kiến này, còn được gọi là cải cách kinh tế vi mô, đã
giúp Australia phát triển sản xuất từ 10.1% trong năm 1983-1984 tới 17.8%
trong năm 2003-2004.[12]
Có nhiều yếu tố khác đóng góp vào sự thâm hụt tài khoản rất cao hiện nay
mà Australia phải gánh chịu ngày hôm nay. Thiếu năng lực cạnh tranh quốc tế
và sự phụ thuộc nặng về hàng hóa vốn từ nước ngoài có thể làm tăng thâm hụt
tài khoản hiện tại của Australiatrong tương lai.