1. 55
hồi quy với chỉ số môi trường tương ứng được dùng để đánh giá phản ứng
của các kiểu gene với môi trường thay đổi và ước lượng độ lệch so với
đường hồi quy (Eberhart và Russel, 1966). Một kiểu gene mong muốn là
kiểu gene có năng suất trung bình cao, hệ số hồi quy bằng 1, và độ lệch so
với đường hồi quy bằng 0. Mô hình thống kê như sau:
Yij = μ + biIj + δij
trong đó: μ - trung bình của tất cả các kiểu gene trong tất cả môi trường;
Yij - giá trị của kiểu gene thứ i trong môi trường thứ j;
bi - hệ số hồi quy của giống thứ i với chỉ số môi trường;
Ij - chỉ số môi trường.
Hệ số hồi quy được xác định theo công thức: ∑∑=
j
j
j
jiji IIYb 2
/)(
trong đó: Ij là chỉ số môi trường và bằng: )/()/( ∑∑∑ −=
i j
ij
i
ijj glYgYI
Độ lệch so với đương hồi quy là: [ ])/()2/()( 222
rgS e
j
ijdi σδ −⎥
⎦
⎤
⎢
⎣
⎡
−= ∑
trong đó: ⎥
⎦
⎤
⎢
⎣
⎡
−⎥
⎦
⎤
⎢
⎣
⎡
−= ∑ ∑∑∑ j
jjij
j
iijij IIYIYY 22222
/)()/(δ
Ghi chú: Có thể tham khảo thêm trong Bài giảng về "Di truyền học quần
thể và số lượng" của Bruce Walsh (2006).
4. Một số nhận xét về các mối quan hệ giữa kiểu gene và kiểu hình
• Thường biến và mức phản ứng
Đối với các tính trạng số lượng, sự biểu hiện ở kiểu hình của một kiểu
gene nào đó rõ ràng là tùy thuộc của các nhân tố môi trường, tức là tùy
thuộc tùy thuộc vào độ thâm nhập và độ biểu hiện của kiểu gene đó (sẽ
được đề cập dưới đây). Hay nói cách khác, kiểu hình là kết quả của sự
tương tác giữa kiểu gene và môi trường.
Trong một tình huống lý tưởng, phạm vi tác dụng của môi trường lên
một kiểu gene nào đó có thể xác định được bằng cách quan sát kiểu hình
của các cá thể giống nhau về mặt di truyền được nuôi dưỡng chăm sóc
trong các môi trường khác nhau. Ở người, các cặp sinh đôi cùng trứng
được tách nuôi riêng lúc sơ sinh đã chứng minh cho một tình huồng như
vậy. Tuy nhiên, những chỉ dẫn tốt nhất về các tác dụng của môi trưòng bắt
nguồn từ các nghiên cứu ở loài mà có thể nuôi trồng với số lượng lớn trên
các môi trường được kiểm soát.