SlideShare a Scribd company logo
1 of 14
khiến cho người phải biết thời cục, nên gọi là tam dương khai tấu, Thanh Dương, Hồng Dương,
Bạch Dương. Ngày nay liệu sở hữu phải là Bạch Dương Kỳ, chúng ta tham khảo lịch sử đương
lại thì rõ. Thanh Dương Kỳ cô dâu mặc áo cưới màu xanh, số đông bài trí đều là màu xanh, màu
xanh là màu cát tường. Hồng Dương Kỳ cô dâu mặc áo cưới màu hồng, trong phòng ngủ hay
phòng khách đều sắp đặt màu đỏ, màu hồng là màu cát tường. Ngày nay là cô dâu mặc áo cưới
màu trắng, điều này rất rõ ràng là Bạch Dương Kỳ rồi, thành ra chúng ta phải nhận biết Bạch
Dương Kỳ và giai đoạn này Di Lặc thánh sư quản chưởng thiên bàn, Sư Tôn Sư cái chưởng đạo
bàn và là Bạch Dương nhị tổ, thành ra chúng ta phải tu luyện thật tốt dưới thời Bạch Dương, đại
đạo giáng thế là ứng thời ứng vận, cho nên tu đạo phải nhận biết địa lợi thiên thời.
Dựa vào công pháp lên trời và xuống đất, biết được mình trong khoảng trên trời xuống và sở hữu
thể từ mặt đất mà lên trời, biết được công cu li tam bảo, do vậy bây giờ chúng ta đang trong sự
chuyển đổi giữa hữu hình và vô hình. Hữu hình chính là phần thân thể của chúng ta, vô hình
chính là tâm niệm của chúng ta. Sau khi biết được các đạo lý này rồi thì tâm của chúng ta chuyển
niệm, tương tự thì mỗi người sẽ từ chỗ giống như sắt mà chuyển biến thành vàng, thật sự là với
thể biến sắt thành vàng.
Lão loại sử dụng lời âm thanh từ bi yêu thương để gọi những người con chúng ta đây tỉnh, ko
nên tiếp tục buông thả mình, tuy hiện giờ trong khi tu đạo vẫn là người, nhưng sau lúc phê duyệt
đắc được 1 chỉ điểm thì giống như sắt điểm một mẫu thì biến thành vàng, trở nên thể kim cang
bất hoại.
Sau khi đắc đạo thì phải lập chí ở đạo, mỗi ngày thực tình, không khi nào rời khỏi đạo tâm và 3
bảo, như quân tử Nhan Hồi đắc được một điểm thì luôn khắc cốt ghi tâm , gìn giữ kỹ lưỡng để ko
mất đi.
Tam tai bát khổ bất lai xâm
Tam (3) tai là thủy, hỏa, phong kiếp, Bát nạn là hạn hán, lụt lội, nạn đói, bệnh ôn dịch, châu
chấu, mãnh thú tinh ma, ma quỷ…Nếu mỗi ngày chí tâm thường trì niệm thì sẽ tránh khỏi được
tam tai bát kiếp và tam tai bát kiếp bỗng nhiên không tới sắp mình để xâm phạm, sở hữu tam
bảo, mang tu thì được bình an vô sự.
Yếu tưởng thần thánh Phật thường lễ bái
Tu tam bảo phải ngộ lý tận tính ( ngộ được chân lý, tận chiếc phật tánh, thiên lý lương tâm của
mình, thời thời điểm khắc không được rời khỏi dòng thiên lý lương tâm. Ngoài việc với thể tiêu
tai giải nguy, mỗi ngày ko rời khỏi phật trục đường tự tánh, bỏ ác theo thiện, cải hối đổi thay trở
thành người mới, khởi hành tâm từ bi độ hóa chúng sanh, khi còn tại thế thì giống y như phật mà
tu hạnh ý trung nhân Tát, như vậy thì thành Phật ko sở hữu khó khăn.
Thường trì sáng tạo trí óc tâm
Phải thường xuyên gìn giữ thiên lý lương tâm, đối mang bên ngoài thi phải tai nghe, mắt Nhìn
vào rõ ràng dương thế đang mỗi ngày biến hóa thay đổi và thiên ma vạn giáo đều đã xây dựng
thương hiệu, đối nội phải bắt buộc diệu trí tuệ mà bản tính vốn sở hữu để suy đoán sự việc đúng
sai, chánh tà mới sở hữu thể tránh bước vào con đường sai lầm mà nếu như nhỡ bước vào rồi thì
ôm ấp nỗi ăn năn ngàn thu, với ăn năn cũng không kịp.
Cẩm nang trong khoảng chiếc sở hữu nhắc chúng ta rằng : tới ngũ nào ấy lúc đại cục biến đổi 1
dòng, tiên nhân fake sẽ xuất hiện, đến khi ấy phải biết rõ ràng, cắn răng chịu chứa, bất nói pháp
thuật của người đấy thế nào, chúng ta không nên tham ko nên vẳng tưởng, một tí cũng không
chao đảo, chỉ cần tôn sư trọng đạo, nhận lý quy chân, trận đại khảo này là làm cho loạn đạo bàn,
cũng là khảo nghiệm trí óc của mọi người. Do vậy mọi chuyện phải nghĩ suy tỷ mỉ và phân biệt
rõ ràng, sau đó thật tâm mà khiến, không hành động tùy luôn tiện thiếu suy nghĩ, không tin nghe
những lời yêu ngôn huỷ báng, như vậy thì bình an vô sự.
Lao xuyên ý mã niệm vô sinh
Tâm viên ý mã tức thị tâm của chúng ta rất loạn, rất phiền não, ấy đều là do dòng tâm viên ý mã
của chúng ta tác oai tác quái, chúng ta phải làm tâm lắng tĩnh xuống, phải buộc chặt cái tâm viên
ý mã này mới với thể tịnh tâm tu đạo, chính là cái công phu mà sách Đại Học kể : “ tĩnh định an
lự đắc “, nghĩa là tâm phải tịnh trước rồi mới có định lực, định rồi thì mới an. Một khi chiếc tâm
vượn đã định thì khi không trí tuệ với thể phát sinh, 1 tâm 1 ý ( 1 lòng một dạ ) giữ gìn đạo tâm,
cộng có Lão cái trên trời tâm liền tâm, tức nhân tâm hợp với thiên tâm ( lòng người phải hợp với
lòng trời ), đó gọi là “ nhân năng thường thanh tịnh, thiên địa tất giai quy “.
Lão mẫu giáng trần chân thiên chú
dụng ý trì niệm hữu thần thông
Chân nhân của chúng ta được 1 điểm ở chỗ này , lại đắc được 5 tự chân ngôn ( vô tự chân kinh ),
phải thật tâm thật ý giữ gìn trong tâm không lúc nào rời. Chúng ta phải tình thật kính ý mà trì
niệm mẫu tam bảo này thì mới có thần thông.
Kinh Kim Cang viết : như thị trú, thị giáng phục kì tâm. Chẳng những sở hữu thể giáng phục
dòng tâm vọng niệm, nếu như lúc gặp hoạn nạn, thì chư thiên tiên phật sẽ tự đến giải cứu thoát ly
khỏi tai kiếp.
Mãn thiên tinh đẩu đô hạ thế
Vô tự chân kinh là do Lão chiếc trên trời giáng xuống chân ngôn khẩu lệnh, với ai dám ko nghe
theo. Lúc đại kiếp đến, mọi người tụng niệm 1 dòng sẽ động địa kinh thiên. Phần đông Chư thiên
tiên phật tinh quân đều giáng xuống Đông Thổ thế gian, cứu độ thế nhân thoát kiếp.
năm phương liệt tiên hạ thiên cung
ko chỉ sở hữu mãn thiên tinh đẩu, ngay tới liệt vị thần tiên Đông Tây Nam Bắc Trung Ương đều
cộng hạ thiên cung, tới Đông Thổ trần thế để trợ đạo cứu kiếp, đấy gọi là trên trời không lưu giữ
một vị phật nào, toàn bộ đều được tổng cổ vũ xuống trần giới.
Thành Hoàng là một chức thần của Minh Ty âm cung, mỗi nơi đều với, giống như sổ hộ tịch ở
dương gian được thiết lập ở những phố, thị xã, làng. Thế nhưng con người sau khi chết linh hồn
phải tới Minh Phủ Thành Hoàng để báo với mặt, bởi vậy ơn trên từ mẫn cho chúng ta tu trước
đắc sau, giả dụ giống như trước kia phải tiên tu hậu đắc thì lúc đại kiếp đến trước mắt, làm gì còn
kịp mà tu nữa. Thế nhưng có câu : Tu đạo ngày xưa, biết khó nhưng hành dễ, tu đạo hiện giờ,
biết dễ nhưng hành khó. Lý do là vì thời cổ xưa cuộc sống đơn thuần nên tu đạo thuận lợi, nhưng
khi lúc này thì đạo lại ẩn vì vậy đắc đạo khó. Bây giờ đại đạo phổ truyền, đắc đạo tuy dễ nhưng
do toàn cầu muôn màu, cuộc sống phung phí, phải kiên trí mà tu, trước sau như 1 quả là rất khó.
Bởi vậy biết và làm cho phải đi đôi sở hữu nhau. Con người ban sơ là từ Lý Thiên giáng xuống
mà sinh ra trên đời, nên mới đề cập là có Phật tánh, Hoàng thai nhi. Xưa và nay cũng như 1, đắc
đạo rồi thì sở hữu thể siêu sanh, phản hồi Lý Thiên mà phục mệnh. Bây giờ chúng ta đắc trước
do vậy phải làm cho giấy má chuyển hộ khẩu, trong khoảng sổ dưới Địa
Phủ di dời tới chỗ của Tam Quan Đại Đế, sau này khi quy ko, tới chỗ Tam Quan Đại Đế báo tới
là được, cho nên tại chỗ đắc đạo viết biểu văn trình tấu Tam Quan Đại Đế, gọi là Thiên Bản ghi
Danh, âm ti rút tên, đối hiệu xóa tịch. Tuy là chuyển dời hộ khẩu trước nhưng vẫn phải tâm thành
thật ý, sớm muộn như một mà tu, gọi là thực lòng tu đạo trước sau như một thì thành đạo với dư,
không nên giữa tuyến phố mà thối chí đạo tâm, lúc bị gạt bỏ khỏi hộ khẩu thì mang hối hận cũng
không kịp.
Tuy thiên bảng ghi danh, địa phủ rút tên, nhưng Minh Sư đã có kể nhở trước rằng : Ngu phu
thành đắc hoàn hương đạo, sinh lai tử khứ kiến đương tiền. Vẫn phải xem hành vi tu tập của
tư nhân mỗi người, đấy gọi là : Đạo do thầy truyền nhưng tu là do bản thân mỗi người. Tu thật
hay tu kém chất lượng, một cử nhất động tuy với thể che mắt được bạn đồng tu nhưng ko thoát
khỏi sự giám sát của luật pháp Chủ và Báo sự linh đồng, họ đều đại công vô bốn, tra xét rất rõ
ràng, chuyển tấu lên thiên đình, khi đấy nếu là tu hành giả thì ko xong rồi. Tăng Tử viết : thập
mục sở kiến, mười thu sở chỉ, kỳ nghiêm hô.
Tam quan đại đế từ bi chú
Tam Quan Đại Đế là 3 vị vua minh chủ hửu đạo thời cổ đại gồm : vua Nghiêu, Thuần, Vũ, với
công có đời, Thượng Đế chia làm tam quan, Ngày 15 tháng giêng thượng nguyên : vua Nghiêu ,
nhất phầm tư phúc Thiên Quan; Tử Vi Đại Đế.
Hạ nguyên 15 tháng thập, vua Vũ, Tam Khẩu giải ách Thủy Quan, Động Âm Đại Đế. Họ đều đại
công vô tứ, thưởng phạt rành mạch rõ ràng, quản lý sổ biên chép công và tội, thiện và ác. Tam
Quan Đại Đế rất trong khoảng bi, lúc biểu văn tới, bất nhắc là người đó đang tu hay chưa tu, 1
luật đều đăng ký ghi tên vào sổ.
Xá tội tam tào cứu chúng sinh
Kỳ này đại kiếp ập đến, Lão loại trên trời vì cứu chúng sanh, đặc khoan ân xá cho người tu đạo,
nếu như với thể thật tâm hủ lậu, thực bụng cải hối, sửa sai đổi mới, trời với đức hiếu sinh, không
giết mổ người cải hối, ơn trên tất sẽ xá tùng cho tội lỗi trước đây, ko đang tâm để 96 nguyên linh
phật tử đọa lạc. Thành ra tu đạo có 3 phần thực tình thì trời sẽ với 7 phần cảm ứng, 7 phần tình
thực thì với thể được điểm tròn, thật là cơ hội khó gặp.
Cứu khổ thiên tôn lai cứu thế
Đạo và kiếp cùng giáng, cũng là toàn cầu Phật và Ma, cũng là quá trình thanh toán hạ nguyên
giáp tử, do vậy trong khi tu đạo khó hạn chế khỏi gặp phải chuyện ko tiện dụng, gọi là khảo
nghiệm. Thế nhưng tu đạo chịu khảo chứ ko chịu tai kiếp, Kim Cang Kinh lục thập phân : nếu
như làm cho người thấp kém tầm thường là do tội nghiệp kiếp trước của người, đúng ra phải đọa
vào ác đạo, nay người đã chịu kém cỏi tầm thường nên tội nghiệp trước đây tức được xóa giảm.
Do đó khảo nghiệm là thời cơ để tiêu oán giải nghiệp, ơn trên Lão mẫu trong khoảng bi phái cứu
khổ thiên tôn hạ phàm tới cứu thế nhân.
thân điểm văn bộ yết đế thần
Di Lặc cứu khổ chân kinh
khi lúc này, Kinh này vẫn chưa lưu truyền xuống, cũng là vì quá trình chưa tới. Mãi đến lúc Kim
Công tiên tổ vào ngũ Dân Quốc thứ 15, ngày 3 tháng 3 hiển hoá mượn khiếu bày tỏ ra. Kim
Công tổ tông chính là tổ tiên đời thứ 17, tức Bạch Dương tổ tiên, Minh Sư Lộ Trung nhất ,
người tỉnh giấc Sơn Đông, thị xã Tế Ninh, sinh vào 5 thứ 29 Thanh Đạo quang, nghĩa là trước
ngũ 63 ( 5 1849 ) Tuế Thứ ghen tuông Dậu ngày 24 tháng tư đản sinh vào giờ ngọ, thánh hiệu
“ Nho đồng Kim Công “, chúng ta gọi ngài là “ Kim Công tiên sư ”, đạo hiệu “ nam mô Thiên
Nguyên Thái Bảo Na mô A Di Đà Phật “. Dân Quốc năm thứ 14 ngày 2 tháng 2 ngài thành
đạo, Dân Quốc ngũ thứ 15 ngày 3 tháng 2, ngài mượn khiếu của Dương Xuân Linh ở Sơn Tây
tới Sơn Đông hiển hoá 100 ngày. Trong vòng 100 ngày này không ăn gì hết, mồm nhắc “ Kim
Công Diệu Điển “ và “ Di Lặc chân kinh “ , ấy là “ Kim Kê sơ xướng ( Gà vàng gáy lần đầu ),
quyển “ Di Lặc Chân Kinh “ mới thấy xuất hiện trên đời. Ngũ Dân Quốc thứ 18 lại mượn khiếu
của Đỗ Ngọc Côn ở Hà Nam, hiển hoá một tháng trời, ấy là “ Kim Kê nhị xướng “. Còn khi
“ Kim Kê tam xướng “, Lão tổ sư sẽ đích thân đến bình thu vạn giáo, tức là vạn pháp quy một,
trần thế sẽ thái bình.
thời điểm Di Lặc tiên tổ giáng sinh lần trước nhất là 2500 ngũ về trước, xuất thân ở nước Ba La
nài nỉ thuộc miền Bắc Ấn Độ. Cha của ngài là tể tướng của nước Ba La nề, Di Lặc là Sao Bắc
Vương Chân Võ hạ phàm chuyển thế, cũng chính là giáo chủ của Vạn giáo quản trưởng thiên
bàn lâu dài. Quốc Sư của nước Ba La năn nỉ ( Pháp sư Bà La môn giáo ) biết coi thiên văn, biết
được sự việc này nên sinh lòng ghen ghét đố kị, ngụy tấu mang Quốc Vương rằng : Trong số các
đứa trẻ sinh ra ở Nước ta hôm nay vào 3 canh giờ Tý Sửu Dần lúc đó có một đứa là do sao Ác
Ma tới đầu thai, sau này to lên sẽ tranh giành giang sơn mang Quốc Vương, nên cần phải diệt
trừ. Quốc Vương tin nghe lời nói của Quốc Sư, lập tức hạ một đạo thánh chỉ cho các Phủ Châu
thị xã của cả nước phải làm thịt chết đầy đủ các đứa trẻ sinh vào 3 giờ tý Sửu Dần của ngày bữa
nay. Thế nhưng thừa tướng cu li nhân cũng hạ sinh Di Lặc vào thời kì này bởi vậy sau lúc nghe
bẩm báo thì tướng quốc và cu li nhân đều rất lo âu không im. Phu nhân tức thì kêu em trai mình
đưa Di Lặc trốn ra nước ngoài, chóng vánh đề cập thừa tướng hạ lệnh phái 16 vị Võ Tướng hộ
pháp cả đêm xuất Quan ải đem trốn ra nước ngoài nuôi nấng. Tới khi 7 tuổi, dì của Di Lặc dẫn
ngài và 16 vị tùy Tướng đi theo cùng tới tham bái đức Phật Thích Ca Mâu ni. Sau khi thọ ký
xong, chỉ độc nhất ngài Di Lặc là ko kể vào hàng môn sinh, bởi vì Phật Thích Ca Mâu mi biết
rằng ngài Di Lặc chính là vị tổ tông 3000 5 sau sẽ hạ thế chưởng Thiên Bàn và thâu viên. Khi lúc
này, Phật Thích Ca khởi đầu giảng thuật lại 3000 năm sau Di lặc sẽ hạ thế cứu khổ cứu nạn, phổ
độ 96 duyên cớ phật tử. Toàn bộ mọi người vào thời điểm ấy phải tái hạ thế chuyển sanh làm
người để được ngài thọ ký mới với thể thật sự thoát khỏi phàm è, miễn khỏi lưu lạc trong bể khổ
sinh tử luân hồi lần nữa. Mẫu này rất quan yếu bởi vì sau 3000 ngũ giả dụ không chuyển thế hạ
phàm để được Di Lặc Phật thọ ký thì chúng ta sẽ ko mang cách thức nào thoát ly sinh tử luân
hồi. Thành ra đức Phật Thích Ca Mâu ni đã nhắc khi bấy giờ để giải thích rõ vào thời Tam Kỳ
mạt đời Di Lặc thánh sư sẽ quản chưởng Thiên bàn, thu nhận 1 con đường Kim Tuyến đại đạo
truyền trong thời Tam Kỳ mạt đời. Ấy gọi là bàn việc Mạt Hậu 1 Trước Thâu viên đại sự, phụng
thừa lệnh của Lão loại mà đại khai phổ độ, từ khi trung Quốc phổ truyền các nước trên thế giới.
Đoạn này là 1 đoạn mà 2500 ngũ về trước đức Phật Thích Ca Mâu mi đã đề cập tới, điều đó cũng
chứng giám rằng 2500 năm về sau, Phật Di Lặc vào thời Tam Kỳ mạt kiếp sẽ đến người đời, trên
trời thì quản chưởng Thiên bàn, nơi dương gian thì bàn chuyện Thâu Viên Đại sự, bởi thế mới
gọi là Phật đề cập. Vì vậy bộ kinh này là bộ kinh do Phật đề cập, ko phải lả người bình thường
tùy luôn thể viết ra.
Ở trên là kinh do Đức Phật Thích Ca Mâu mi đã kể đến 2500 5 về trước. Tiếp theo là Quyển Di
Lặc Cứu Khổ Chân Kinh lại mang một bối cảnh nhân duyên khác.
Đông Phương tổ tông đời thứ 17 là Kim Công tổ sư, tôn hiệu là na mô thiên Nguyên Thái Bảo
Nam mo A Di Da Phat, cũng với nghĩa rằng Đức Phật Di Lặc đã tới trần giới rồi, cũng mang tức
thị thời điểm mà 2500 5 về trước Đức Phật thích Ca Mâu mi từng nhắc cho đến nay đã đến rồi.
Đông Phương tổ sư đời thứ 17 là Kim Công cha ông chính là do đức Phật Di Lặc hóa thân
chuyển thế vào sau công nguyên ngũ 1849, 5 Tuế Thứ Kỷ Dậu tuổi gà, nên mới có câu nhắc là
Kim Kê Tam Xướng.
Kim Kê một Xướng 5 1926 sau công nguyên : ngày 2 tháng 2 năm 1925, Lộ tổ sư quy ko, đến
ngày 3 tháng 3 5 1926 tức là 1 ngũ sau, Lộ Tổ mượn khiếu của cô Dương Xuân Linh ở tỉnh Sơn
Tây đến Sơn Đông Tế Ninh hiển hóa, tổng cùng 100 ngày không ăn không uống, miệng nhắc
Kim Công Diệu Điển và quyển Di Lặc Cứu Khổ Chân Kinh này để truyền lại cho thiên hạ.
Thành ra quyển Di Lặc cứu khổ chân kinh này ko nằm trong bộ Đại tạng Kinh mà Đức Phật
Thích Ca Mâu ni đã từng đề cập. Bởi vậy trong Kinh Điển không thể tậu thấy bộ kinh nay.
Nhưng khi nãy chúng ta sở hữu kể đến 2500 5 trước đây đức Phật Thích Ca từng đề cập đến.
Đồng thời, trong 100 ngày đó, 2 tay của cô Dương Xuân Linh cầm hai cây bút lông cùng một lúc
viết nên 2 câu đối bằng chữ Triện. Cách viết thế này : 2 tay cầm 2 cây bút lông rời xa mặt giấy,
mực rớt từ trên cao xuống, sau đấy thì thành 2 câu đối :
Vũ đả hà hoa phụng điểm đầu.
Dương Xuân Linh 100 ngày sau thì được Kim Công thánh sư đưa về trời.
Đây gọi là kim Kê 1 xướng ( gà vàng gáy lần thứ 1 )
Trải qua 3 năm sau thì kim kê Nhị xướng : ngũ 1930 sau côn nguyên, cha ông lại mượn khiếu
của 1 đứa ở Hà Nam tên là Đỗ Ngọc Khôn trong khoảng Hà Nam chạy đến Sơn Đông. Khi lúc
này không với máy bay hay xe để ngồi, ở Sơn Đông ngài lại độ hóa và thành toàn đạo thân, sau
đấy người này lại bặt tăm biệt tích, không một ai biết là đã đi đâu.
như vậy, ở Trung Quốc Đại Lục lúc bây giờ do với số đông hiển hóa nên đã với số đông người
cầu Tam Bảo.
Sau này Kim Kê Tam xướng là phải đợi tới lúc Đại Đạo minh hiển, mọi người đều mang đạo, thế
giới đại đồng thì các người tu đạo mà có công ơn sẽ vừa được hưởng hồng phúc vừa thừa hưởng
thanh phúc ( thành thần thánh hiền tiên phật ), lúc ấy sẽ ko còn địa lao tù nữa, Sau khi ở thiên hạ
thì lại quay về thiên đàng. Vì vậy chúng ta rất sở hữu Phật duyên mới gặp được Phật xuất thế,
tức là chúng ta đã theo kịp thời đại mà Phật Di Lặc đến dương thế để độ hóa chúng sanh. Hiện
giờ chúng ta bắt đầu đi sâu vào bài kinh.
Di Lặc hạ thế bất phi khinh
Vào thời Bạch Dương kỳ Di Lặc giáng thế, là thời Tam Kỳ mạt kiếp , thời này tại sao Di Lặc
phải hạ thế ? Vì tai kiếp của chúng ta ngày càng nhiều và hiểm nguy, vì thế Phật trong khoảng bi
muốn chúng ta mau chóng bình an về nhà, thành ra đây là một chuyện rất trọng đại chứ chẳng
phải là chuyện thường nhật. Khi chúng ta cầu tam bảo có nhẽ chúng ta vẫn chưa chú ý tới, mẫu
đoạn lúc mà điểm truyền sư bàn đạo có phó chúc :Mạt hậu 1 trước tích vị ngôn, Minh nhân tại
thử tố 1 phiên. Ngu cu li thức đắc hoàn nhang đạo, sanh lai tử khứ kiến đương tiền.
nghĩa là : trước đây chưa bao giờ nhắc đến chuyện đại sự sau này. Minh nhân chính là Sư Tôn và
Sư mẫu của chúng ta lúc thỉnh đàn mang đến đề cập rõ cho chúng ta : tuy chúng ta đều là các
người thông thường, nhưng nếu chúng ta sở hữu cầu qua tam bảo thì biết được phải đi các con
phố như thế nào để có thể về trời. Chúng ta đã sở hữu cầu qua tam bảo đều biết được bảo thứ 1
chính là chỗ thư hùng tức thì. Do đó nếu các ai chưa cầu tam bảo thì dù chúng ta với nói có họ,
họ cũng chẳng hiểu. Trong Kinh Di Lặc cứu khổ chân kinh đều nói về việc chúng ta khiến thế
nào để về trời, chúng ta phải cầu Tam Bảo. Trong ấy đều mang thiên cơ.
Lãnh bửu Tề Lỗ Linh Sơn Địa
Lãnh mang tức là Minh sư thọ lãnh lệnh của Lão chiếc, truyền thụ khẩu truyền tâm ấn, Tam Bảo
( Quan, quyết, ấn ) , ở Tề Lỗ, tức là Sơn Đông hiện giờ, là thần thánh địa mà từ xưa có rộng rãi
thánh Nhân xuất hiện 1, bởi vậy thánh sư lãnh thiên mệnh truyền thọ mệnh cũng đều xuất thân ở
Sơn Đông ( đa dạng 1 ) , như tiên sư cha đời thứ 17 , Lộ Tổ chính là xuất thân ở Sơn Đông quận
Tế Ninh. Tiên tổ đời thứ 18, Sư Tôn của chúng ta cũng xuất thân ở Sơn Đông quận Tế Ninh. Sư
cái cũng xuất thân ở tỉnh giấc Sơn Đông. Thế nhưng các người thọ mệnh thì ở Linh sơn địa của
mỗi người.
Phật tại linh sơn mạc viễn cầu
Linh sơn chỉ tại nhữ tâm đầu
Nhân nhân hữu cá linh sơn tháp
Hảo hướng linh sơn tháp hạ tu
mẫu này khi chúng ta cầu tam bảo đã biết rồi. Linh sơn địa chính là huyền quan khiếu của từng
người. Chuẩn y Minh sư 1 chỉ điểm mở ra chỉ cần tu thật phải chăng ở núi Linh Sơn tu tâm luyện
tính, hành công lập đức, lúc tuổi thọ đã hết, linh tánh tự dưng sẽ đi ra trong khoảng cửa chính,
miễn được phải chịu nỗi khổ luân hồi, với thể quy căn phục mệnh . Đây là bài thơ ám chỉ của
Quan Thế Âm người tình Tát tiêu dùng để nhắc có phần lớn các người tu hành, ý đề cập rằng số
đông mỗi người chúng ta đều mang 1 núi Linh Sơn và ko một mực phải đi tới nơi xa xăm để cầu.
Nhưng ví như mình chưa cầu qua tam bảo thì mình cũng không mang phương pháp nào biết
được khiến cho thế nào để tu ở dưới tháp Linh Sơn. Điều này cũng có nghĩa rằng Quan Thế Âm
người tình Tát trước đây cũng từng mang cầu tam bảo do sư phụ truyền cho, nhưng do đây là
thiên cơ bất khả lộ nên Quan Thế Âm ý trung nhân Tát cũng không dám mách nhỏ, nhưng Quan
Thế Âm người thương Tát từ bi rất muốn cho mọi người biết nên mới viết lưu lại bài thơ này, chỉ
là xém một tẹo chút, nhưng tuy xém một tí chút mà không sở hữu Minh Sư một chỉ điểm thì
cũng ko sở hữu cách nào. Hiện nay là thời kỳ phổ độ nên chúng ta với thể lấy ra nghiên cứu.
đó gọi là Thượng đẳng tu hành ngộ giác tính, trung đẳng tu hành chấp văn tự, Hạ đẳng tu
hành trọng hiển hóa, Mạc chấp hình tượng quy ngẫu nhiên. Tức thị đạo pháp tự dưng. Cho
nên lúc bây giờ lúc Đức Phật Thích Ca Mâu ni truyền thụ là đơn truyền độc thụ. Trước hết phải
sử dụng phương pháp thăm dò, sử dụng pháp niêm hoa vi tiếu , tuyển chọn vật truyền thụ.
Đây là chỉ lúc đức Phật đang giảng đạo ở núi Linh Khứu Sơn. Khi bây giờ có hầu hết môn đồ
đang nghe kinh trong lần mở pháp hội thứ 16, mang hơn 3000 đồ đệ và đức Phật cầm 1 đóa hoa
mỉm cười. Cả hơn 3000 môn đệ đều không hiểu được ý của ngài, sau đó đại môn đệ là ngài Ma
Ha Ca Diếp hiểu được ý bèn mỉm cười, bởi thế đức Phật Thích Ca bèn truyền chánh pháp và y
bát cho đại môn đệ Tôn giả Ma Ha Ca Diếp.
Trong giáo gọi là giáo ngoại biệt truyền, trước đây giảng kinh thuyết pháp đông đảo, đề cập phần
đông những giáo pháp nhưng bên trong đấy đều ko với cách nào đề cập tới diệu pháp này. Do
đó, xưa kia phải tu trước rồi ngộ ra được chỗ thiền cơ sau đấy mới đắc chân truyền. Bữa nay,
chúng ta đắc trước tu sau, nhẹ nhàng hơn đa dạng rồI nên mới nhắc :
Đạp phá thiết hài vô mịch sứ,
đắc lai toàn bất phí công phu。
Đi mòn nát cả đôi giày thép cũng ko với cách thức nào mua thấy
Đắc được rồi nhưng hoàn toàn không phí tí công cu li
Tuy rằng chúng ta dễ mà đắc được nhưng chúng ta phải đi từng bước kiên cố, chăm chỉ tu luyện
chứ không biếng lười, trước sau ko dừng, sau này nhất thiết có thể ấn chứng, từ công quả ít đa
dạng, trải qua khảo nghiệm thành công mà được liệt vào quả vị 3 thừa cửu phẩm liên đài. Do vậy
muốn sở hữu quả vị là chúng ta phải khởi đầu tu trong khoảng ngày nay. Mai sau liên phẩm của
mình cao lớn như thế nào là phải xem mình kiếp này khiến như thế nào
cũng chính là 3 người đồng hành tất sẽ sở hữu người là thầy của chúng ta, chính là chỗ mà ta
phải hạ công phu tu luyện, chính là chỗ mà ta sở hữu thể tương thông sở hữu trời. Chỗ mà trời
tương thông sở hữu chúng ta chính là chỗ mà chúng ta bắt đầu sở hữu tinh, khí, thần. Từ phương
thôn bảo địa này hướng lên trên thì là trời, hướng về chúng ta đi xuống thì là tinh, khí, thần.
Trong kinh kim cang với đề cập : Như thị chú, như thị giáng phục kỳ tâm, vô sở trú nhi sinh
kỳ tâm. Phần đông đều là quy ở Tam Tinh Địa.
Nhân đắc một vi đại, trong khoảng chỗ này mang thể chứng phật chứng thánh, Kinh Kim Cang
chỉ thị “ Xá Vệ Thành “ chính là giữa mắt, tai, mũi, mồm, khiếu chính giữa của thất khổng bát
khiếu. Vì vậy tu đạo phải đóng bốn cánh cửa sổ này lại.
Bên ngoài thân người có 3 con sông : tham, sân, si mê ; bên trong gồm mang : tinh, khí, thần
bởi thế tu đạo phải phản bổn quy nguyên ( đi ngược cái, kiếm tìm dòng chảy thứ 4 ) . Vương là
lấy tánh Vương khiến cho trọng. Tánh vương như mẫu lõi ( ruột ) của quả đào và là hạt giống.
Ruột quả đào ví như bị hư hoại thì chẳng thể mọc rễ nảy mầm, không thể nào to lên và kết ra quả
( vì thế tu đạo phải kiếm tìm thiên tâm, bản tâm ). Lương tâm của con người cũng như lõi của
quả đào vậy. Mạnh Tử kể : người không có trắc ẩn tri tâm thì ko phải là người, ko là người tức
thị bốn sanh.
bởi thế đó là để ấn chứng cho chúng ta làm cho thế nào để sắm được tánh vương của mình, khiến
cho thế nào để quay đầu là bờ và phải tu như thế nào.
Vào thời kỳ ứng vận này, hai vị Phật Thiên Chân chính là kể về Sư Tôn, Sư mẫu của chúng ta,
nghĩa là khi không Cổ Phật và Tố Chân Cổ Phật, lãnh thiên mệnh phổ độ 96 nguyên phật tử, hiệp
trợ Di Lặc tiên sư cha thâu viên. Khi chúng ta tới cầu Tam Bảo đều phải đến chỗ của Sư Tôn Sư
dòng để quải thần thánh Hiệu ( quải thánh hiệu là đăng ký, đăng ký tên trên thiên đàng và rút bỏ
tên dưới âm ti ), ấy là 1 giấy má cầu Tam Bảo của trời, phải có Thiên Mệnh Minh Sư đăng ký
cho.
Sau khi đăng ký xong mới được vào cầu nguyện Tam Bảo. Đăng ký xong thì lại phải chờ tới khi
điểm thần binh. Bởi vì đăng ký xong thì phải khởi đầu thỉnh đàn mời Lão cái, Chư Thiên Tiên
Phật và rất nhiều thánh đều tới Phật tuyến phố, do đó gọi là điểm thần binh.
Đợi tới khi mạt kiếp đến thì đại đạo cũng giáng thế, vì vậy đại đạo phi thời bất giáng. Tới thời
khắc này cũng chính là toàn cầu Phật và Ma, vì đang vào quá trình trả tiền Hạ Nguyên Giáp Tử,
đồng thời Tam tào phổ độ, sở hữu thể nói trên quả trái đất này đều rất loạn, hồ hết đều muốn tới
cầu đạo, có khí thiên thần đến tậu người có duyên để siêu bạch, tiên nhân của mỗi người cũng
tranh thủ muốn được con cháu mình siêu bạch, chủ nợ cũng tranh thủ sắm tới đòi nợ, cho nên
truyền giáo phải rất nghiêm chỉnh cẩn trọng. Phải mang Thiên Mệnh Minh Sư ( Điểm truyền sư
thay thế cho thầy ), dựa vào thiên mệnh để thỉnh đàn, thay Lão mẫu tuyên chỉ, thỉnh chư thiên
thánh tới đàn, nhị 10 bát tú hộ pháp đàn, mới sở hữu thể bắt đầu bàn đạo, điểm truyền tánh lý
tâm pháp, truyền thụ tam bảo.
khi đó, sau khi thỉnh đàn xong, Tiên Phật tới hầu hết để hộ pháp đàn, thì thầy của chúng ta bắt
đầu truyền cho bảo thứ 1. Vân tức thị nước, Lôi tức là hỏa, khi chúng ta vẫn chưa ra khỏi bào
thai thì vẫn là càn khôn chính vị. Sau lúc trong bào thai đầy 10 tháng và sinh ra ngoài thì dòng
điểm Tiên Thiên Khí này sẽ từ Huyền Quan Khiếu mà nhập vào trong cơ thể, trong khoảng đấy
trở đi thì điểm Huyền Quan Khiếu của chúng ta bị đóng lại, không sở hữu cách nào trong khoảng
cánh cửa này để quay về trời. Bởi thế nếu không do Minh Sư điểm khai mở ra thì là cánh cửa
không với cửa. Chỗ Huyền Quan Khiếu xem ra thì như là ko với cửa nhưng thật ra là sở hữu một
khiếu thông thiên, cho nên chấn khai Trung Ương Mậu Kỷ Thổ chính là ý : loại vô phùng Khóa
của Minh Sư mở ra Huyền Quan khiếu chính là đã mở ra món bảo vô giá.
Thiên hạ thần quỷ bất an ninh
dòng tam bảo quý giá tương tự, với thể siêu sanh liễu tử, vì vậy kinh động quỷ thần trong dương
gian, khiến cho họ cũng phải gấp rút kiếm tìm người sở hữu duyên với mình trước đây để siêu
bạch giùm. Đương nhiên nếu con chiếc của mình đang tu đạo thì siêu bạch thuận lợi, ví như ko
vẫn phải đi tìm người với duyên, vì thế lúc còn thân người thì phải chóng vánh mà cầu Tam Bảo,
tâm thành mà tu luyện, vì tổ sư của mình cũng đang chờ đợi ko yên. Thần và quỷ vẫn còn nằm
trong lục đạo luân hồi, chưa được siêu sanh liễu tử, thành ra họ đều rất khẩn trương bất an.
vì vậy, một tử cầu đạo, cửu huyền thất tổ đồng chiếm quang. Trước thời mạt kiếp nếu như ko đắc
được đạo, tới lúc thời khắc tới rồi thì mọi thứ coi như xong, khó trách thần quỷ cũng bất an mà
đứng ở không lặng.
Thân tại nhân thiên trung hoa dòng
Thân tức là thân cận. Sau khi ưng chuẩn đắc đạo, khi Tý Hợi tương bao ( hiệp đồng chữ Hài ),
mới phát giác hoài tưởng tới Lão cái trên trời, cũng mới biết được trên trời còn với 1 người Mẹ
sinh ra linh tánh của chúng ta, do đó người nhà một vẫn là người mẹ trên trời của chúng ta. Nhân
chính là lõi của trái đào ( tính của một người ), Trung Dung viết “ Thiên mệnh chi vị tính “.
Điểm linh tánh này là từ trên trời giáng xuống trần giới, trước đây chúng ta đều ngộ nhận là do
âm phủ chuyển sinh, cho nên cõi trần mới đề cập : dương thế chết một người thì tuyền đài thêm 1
con quỷ, lại kể người chết là khuất. Bữa nay đại đạo giáng ở Trung Hoa Dân Quốc, do vậy Sư
loại của chúng ta mới xưng là Trung Hoa thần thánh loại, chúng ta phải theo trục đường kim
tuyến của Sư Tôn Sư dòng mà tu thật rẻ.
Câu này là chứng giám tam bảo mà chúng ta cầu hôm nay có thể chứng thánh giáo Cửu Phẩm
Liên đài sau này, cũng là quy về pháp môn tối thượng thừa ( cao một ) . Thánh giáo nghĩa là tánh
lý tâm pháp, theo Kinh Long Hoa chứng giám : Thiên Chân thu viên bất phi khinh, thập tự thác
cửu liên kinh, cửu tự nhai tiền bả hiền điệu, cửu liên khai ư bái vô sinh.
Cửu phẩm liên đài muốn nở hoa thì nhất định phải tậu được vô cơ Lão chiếc, chính là cội rễ, nếu
như ko có cỗi rễ thì không thể khai hoa. Giả dụ hoa sen ko sở hữu cỗi rễ thì ko sở hữu phương
pháp nào nở hoa. Sư Tôn Sư chiếc bàn thu viên Tam Tào phổ độ xưa nay chưa từng sao nhãng
khinh xuất, thập tự giá được một điểm thì với thể chứng cửu phẩm liên đài
Thiên hoa lão cái thuỳ ngọc tuyến
Thiên có tức là Lý Thiên, Hoa mang nghĩa là hoa sen, 96 nguyên linh giống như từng đóa từng
đóa hoa sen vậy. Lão dòng từ bi muốn cứu độ 96 Nguyên Linh, bởi thế mới giáng 1 sợi Kim
Tuyến đại đạo, cũng chính là Di Lặc cứu khổ Chân Kinh và 3 Bảo.
thu viên hiển hoá tại cổ đông
Tam kỳ ứng vận của quá trình này, tam tào phổ độ, cũng chính là kỳ rốt cuộc một Mạt hậu một
trước, ngày nay ngày thu viên gần đến, cũng là lúc đạo và kiếp đồng giáng, đại đạo giáng xuống
nước cổ Đông Thổ ( Đông Phương Cổ Đại – Đài Loan ), ở chỗ Trung Hoa thần thánh Địa Sơn
Đông. Vào lúc đó cũng như bây giờ đều có số đông mẫu hiển hóa đang hiển thần thông để cứu
kiếp, độ 96 nguyên do về trời. Ở Đài Loan đều sở hữu đông đảo tiên phật đến trợ giúp, và hiện
giờ cũng sở hữu hầu hết Tiên Phật tới trợ giúp, giúp cho mọi người đều sở hữu thể cầu được Tam
Bảo
Nam Bắc lưỡng cực liên tông tự
mẫu chánh pháp nhãn tàng, bất nhị pháp môn của Phật giáo là do Đạt Ma tổ tông truyền trong
khoảng Ấn Độ tới Trung Quốc, cho đến sau tiên sư ngũ Tổ Hoằng nhẫn thì chia làm Tông phái
hai nhà Nam Bắc. Phương Nam do Lục Tổ Huệ Năng truyền đốn pháp, tính lý tâm pháp khẩu
truyền tâm ấn, tức thị đắc đạo trước rồi mới tu đạo sau, chính là tu Di Lặc “ cõi trần tịnh thổ “,
trong khoảng hậu thiên quay về tiên thiên, pháp môn tu tại gia trong khoảng nhân đạo mà đạt tới
thiên đạo.
Phương Bắc do Thần Tú truyền cho tiệm pháp, tu Di Đà “ tây phương tịnh độ “ , chính yếu là
niệm kinh vãng sanh tây thiên cực lạc toàn cầu.
2 pháp môn : đốn pháp và tiệm pháp hiện tại phải liên kết lại có nhau.
Đạt Ma tiên nhân có bài thơ làm cho chứng : Đạt Ma tây lai nhất tự vô, toàn bằng tâm ý dụng
công cu li, nhược tùng chỉ thượng tầm phật pháp, bút can trám cạn động đình hồ.
Lại viết : Ngô bản lai từ thổ, truyền pháp độ mê tân, 1 hoa khai 5 diệp, kết quả khi không thành. (
Ta đến trong khoảng nơi này, truyền pháp độ chúng sinh mê muội, Thời đại này bất kỳ Nam
Tông hay Bắc Tông hay năm giáo trước đây đều phải quy về 1. Kết quả là vạn pháp đều phải quy
một.
chiếc cổ sách này chính là loại điểm linh tánh của mỗi người, là do trong khoảng trên trời giáng
xuống đi vào bên trong Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Huyền Quan Khiếu. Chỗ xa xưa một chính là
chỗ Trung ương mậu kỷ thổ của chúng ta, cũng chính là Huyền Quan Khiếu của chúng ta, thành
ra chúng sanh giai hữu phật tánh, cũng đều do một mẹ sinh ra, sau đó do bị môi trường hậu thiên
làm mê muội, dẫn tới tham luyến cảnh sắc trần giới mà tạo nghiệp chẳng thể phản hồi bản
nguyên ( nguồn gốc ban đầu ) vì thế mới thành chúng sanh.
Lão loại giáng thế thông thiên chú
Lão mẫu giáng hạ thông thiên khiếu là vì con ngưởi giáng sinh nơi cõi trần này đã hơn 60000
ngũ rồi, các thâm độc đã tạo tích lũy lại chất cao như núi, vì thế mãi mãi vẫn chỉ là chúng sanh
mà thôi, không thể thành Phật được. Bây giờ kỹ thuật càng vững mạnh, nhưng ngược lại, đạo
đức của con người càng ngày càng đọa lạc, nhân tâm bất cổ, tai kiếp liên hồi, dẫn tới ngày tận
thế gần tới. Lão chiếc trên trời ko đang tâm để thiện ác cộng chết chung, nên đích thân hạ chỉ
giáng thế 1 con đường kim tuyến, trực chỉ kiến tánh, kiến tánh thành phật, vì vậy huyền quan còn
gọi là thông thiên khiếu,
khởi thủy được một điểm thì ai cũng sở hữu thể quy căn nhận cái, thoát ly khổ hải, không cần
phải tiếp tục quay trở lại thế giới này để làm cho chúng sanh.
Vô ảnh sơn tiền đối hiệp đồng
Vô ảnh sơn chính là kể về loại Linh Sơn Tháp của chúng ta, chính là song lâm thụ. Song lâm thụ
là dưới 2 gốc cây Sa La nơi mà lúc trước Đức Phật Thích Ca Mâu ni nhập nát bàn. Tử Trúc Lâm
chính là đạo trường của Quan Thế Âm ý trung nhân Tát, cũng chính là kể tới nơi cư ngụ của Phật
tánh chúng ta. Tuy là tiếp nhận trực chỉ kiến tánh, nhưng chúng ta vẫn phải chăm chỉ tu luyện.
Khi khấu đầu thì hiệp đồng của chúng ta phải đối xứng mang huyền quan khiếu.
Anh nhi yếu tưởng quy gia khứ
Anh Nhi chính là cách gọi yêu thương trìu mến của Lão mẫu trong khoảng bi trên trời dành cho
chúng ta. Chúng ta đều do cộng 1 mẹ sinh ra, vì thế chúng ta đều là con loại của trời, gọi là cửu
lục hoàng thai nữ nhi. Lão cái trong khoảng bi nhắc với chúng ta rằng, đây là thời cơ trong hơn
60000 năm mới sở hữu 1 lần, ví như muốn quay về quê hương Lý Thiên thì phải đi nhận lại
người mẹ, nghĩa là phải mau chóng cầu tam bảo.
Trì niệm đương lai Di Lặc kinh
Trời có tam bảo : Nhật, Nguyệt, Tinh, Đất sở hữu tam bảo : thủy, hỏa, phong, người có tam bảo :
tinh, khí, thần, đạo với tam bảo : Quan, quyết, ấn. Đoạn trước đã đắc được 2 bảo, còn đang thiếu
1 bảo chín h là Di Lặc Chân Kinh, chân kinh không tụng trên giấy, nên gọi là Vô tự chân kinh,
Quan thần thánh Đế Quân viết : “ Phùng tỏa khai khai, chân nhân
Vậy là tam bảo đã hồ hết, mang thể hạn chế kiếp, quy căn nhận loại, chú ý “ trì niệm “ bảo trì
trong tâm, không phải là niệm ra ngoài mồm, chân kinh ghi nhớ trong lòng, mặc niệm là được
rồi, thời thời khắc khắc ko được quên.
dụng tâm trì niệm Phật lai cứu
Chỉ cần sau khi đắc đạo mình chân tình bảo thủ, tình thật tu luyện, dụng ý mặc niệm chân kinh,
trong giai đoạn tu đạo nếu như gặp phải hoán vị nạn to nhỏ, Di Lặc tiên tổ sẽ phái Tiên Phật đến
hộ cứu

More Related Content

Similar to di lặc.docx

địA ngục a_tỳ_du_ký
địA ngục a_tỳ_du_kýđịA ngục a_tỳ_du_ký
địA ngục a_tỳ_du_kýlyquochoang
 
Hoang mau huan tu thap gioi
Hoang mau huan tu thap gioiHoang mau huan tu thap gioi
Hoang mau huan tu thap gioiSonHo22
 
Hoạt ngục hiện hình ký
Hoạt ngục hiện hình kýHoạt ngục hiện hình ký
Hoạt ngục hiện hình kýHoàng Lý Quốc
 
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục BiênẤn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục BiênGarena Beta
 
Ấn Quang Pháp Sư GIa Ngôn Lục Tục BIên
Ấn Quang Pháp Sư GIa Ngôn Lục Tục BIênẤn Quang Pháp Sư GIa Ngôn Lục Tục BIên
Ấn Quang Pháp Sư GIa Ngôn Lục Tục BIênGarena Beta
 
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Phật Ngôn
 
17 9-20-chiêm sát thiện ác nghiệp báo kinh giảng kí quyển hạ
17 9-20-chiêm sát thiện ác nghiệp báo kinh giảng kí quyển hạ17 9-20-chiêm sát thiện ác nghiệp báo kinh giảng kí quyển hạ
17 9-20-chiêm sát thiện ác nghiệp báo kinh giảng kí quyển hạLong NguyenThe
 
Tiếng lòng của khí thiên thần
Tiếng lòng của khí thiên thầnTiếng lòng của khí thiên thần
Tiếng lòng của khí thiên thầnHoàng Lý Quốc
 
Địa Tạng Bồ tátThánh Đức - Hỏi đáp
Địa Tạng Bồ tátThánh Đức - Hỏi đápĐịa Tạng Bồ tátThánh Đức - Hỏi đáp
Địa Tạng Bồ tátThánh Đức - Hỏi đápNhân Quả Luân Hồi
 
Kinh nhan qua luan hoi
Kinh nhan qua luan hoiKinh nhan qua luan hoi
Kinh nhan qua luan hoiĐỗ Bình
 
Lieu pham-tu-huan-tue-chau-bui-du-long-dich
Lieu pham-tu-huan-tue-chau-bui-du-long-dichLieu pham-tu-huan-tue-chau-bui-du-long-dich
Lieu pham-tu-huan-tue-chau-bui-du-long-dichlyquochoang
 
Bát Nhã Trực Giải (Thích Thanh Từ)
Bát Nhã Trực Giải (Thích Thanh Từ)Bát Nhã Trực Giải (Thích Thanh Từ)
Bát Nhã Trực Giải (Thích Thanh Từ)Phật Ngôn
 
Phố khuyến Đạo Hữu Tịnh Độ trì tụng Kinh Địa Tạng
Phố khuyến Đạo Hữu Tịnh Độ trì tụng Kinh Địa TạngPhố khuyến Đạo Hữu Tịnh Độ trì tụng Kinh Địa Tạng
Phố khuyến Đạo Hữu Tịnh Độ trì tụng Kinh Địa TạngNhân Quả Luân Hồi
 

Similar to di lặc.docx (20)

địA ngục a_tỳ_du_ký
địA ngục a_tỳ_du_kýđịA ngục a_tỳ_du_ký
địA ngục a_tỳ_du_ký
 
Tao duyengiaohoa 10428_updt
Tao duyengiaohoa 10428_updtTao duyengiaohoa 10428_updt
Tao duyengiaohoa 10428_updt
 
Hoang mau huan tu thap gioi
Hoang mau huan tu thap gioiHoang mau huan tu thap gioi
Hoang mau huan tu thap gioi
 
Nghiep Luc Va Nguyen Luc
Nghiep Luc Va Nguyen LucNghiep Luc Va Nguyen Luc
Nghiep Luc Va Nguyen Luc
 
Tây Phương Xác Chỉ
Tây Phương Xác ChỉTây Phương Xác Chỉ
Tây Phương Xác Chỉ
 
Tịnh Độ Tuyển Tập
Tịnh Độ Tuyển TậpTịnh Độ Tuyển Tập
Tịnh Độ Tuyển Tập
 
Hoạt ngục hiện hình ký
Hoạt ngục hiện hình kýHoạt ngục hiện hình ký
Hoạt ngục hiện hình ký
 
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục BiênẤn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
 
Ấn Quang Pháp Sư GIa Ngôn Lục Tục BIên
Ấn Quang Pháp Sư GIa Ngôn Lục Tục BIênẤn Quang Pháp Sư GIa Ngôn Lục Tục BIên
Ấn Quang Pháp Sư GIa Ngôn Lục Tục BIên
 
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục Tục Biên
 
17 9-20-chiêm sát thiện ác nghiệp báo kinh giảng kí quyển hạ
17 9-20-chiêm sát thiện ác nghiệp báo kinh giảng kí quyển hạ17 9-20-chiêm sát thiện ác nghiệp báo kinh giảng kí quyển hạ
17 9-20-chiêm sát thiện ác nghiệp báo kinh giảng kí quyển hạ
 
Tiếng lòng của khí thiên thần
Tiếng lòng của khí thiên thầnTiếng lòng của khí thiên thần
Tiếng lòng của khí thiên thần
 
Địa Tạng Bồ tátThánh Đức - Hỏi đáp
Địa Tạng Bồ tátThánh Đức - Hỏi đápĐịa Tạng Bồ tátThánh Đức - Hỏi đáp
Địa Tạng Bồ tátThánh Đức - Hỏi đáp
 
Kinh nhan qua luan hoi
Kinh nhan qua luan hoiKinh nhan qua luan hoi
Kinh nhan qua luan hoi
 
Liễu Phàm Tứ Huấn
Liễu Phàm Tứ HuấnLiễu Phàm Tứ Huấn
Liễu Phàm Tứ Huấn
 
THOÁT KHỎI LUÂN HỒI , ĐẠT GIẢI THOÁT , CHỨNG NGỘ , NIẾT BÀN NHỜ DIỆT ĐƯỢC NGU...
THOÁT KHỎI LUÂN HỒI , ĐẠT GIẢI THOÁT , CHỨNG NGỘ , NIẾT BÀN NHỜ DIỆT ĐƯỢC NGU...THOÁT KHỎI LUÂN HỒI , ĐẠT GIẢI THOÁT , CHỨNG NGỘ , NIẾT BÀN NHỜ DIỆT ĐƯỢC NGU...
THOÁT KHỎI LUÂN HỒI , ĐẠT GIẢI THOÁT , CHỨNG NGỘ , NIẾT BÀN NHỜ DIỆT ĐƯỢC NGU...
 
Lieu pham-tu-huan-tue-chau-bui-du-long-dich
Lieu pham-tu-huan-tue-chau-bui-du-long-dichLieu pham-tu-huan-tue-chau-bui-du-long-dich
Lieu pham-tu-huan-tue-chau-bui-du-long-dich
 
Luân hồi du kí
Luân hồi du kíLuân hồi du kí
Luân hồi du kí
 
Bát Nhã Trực Giải (Thích Thanh Từ)
Bát Nhã Trực Giải (Thích Thanh Từ)Bát Nhã Trực Giải (Thích Thanh Từ)
Bát Nhã Trực Giải (Thích Thanh Từ)
 
Phố khuyến Đạo Hữu Tịnh Độ trì tụng Kinh Địa Tạng
Phố khuyến Đạo Hữu Tịnh Độ trì tụng Kinh Địa TạngPhố khuyến Đạo Hữu Tịnh Độ trì tụng Kinh Địa Tạng
Phố khuyến Đạo Hữu Tịnh Độ trì tụng Kinh Địa Tạng
 

More from Vnkhnmng1banthothinh (16)

phật di lặc là ai.docx
phật di lặc là ai.docxphật di lặc là ai.docx
phật di lặc là ai.docx
 
tượng di lặc.docx
tượng di lặc.docxtượng di lặc.docx
tượng di lặc.docx
 
khai quang.docx
khai quang.docxkhai quang.docx
khai quang.docx
 
thỉnh thần tài.docx
thỉnh thần tài.docxthỉnh thần tài.docx
thỉnh thần tài.docx
 
tượng thần tài.docx
tượng thần tài.docxtượng thần tài.docx
tượng thần tài.docx
 
cây để bàn thờ.docx
cây để bàn thờ.docxcây để bàn thờ.docx
cây để bàn thờ.docx
 
sim số đẹp.docx
sim số đẹp.docxsim số đẹp.docx
sim số đẹp.docx
 
số thần tài.docx
số thần tài.docxsố thần tài.docx
số thần tài.docx
 
nên nhặt thần tài ngoài đường về.docx
nên nhặt thần tài ngoài đường về.docxnên nhặt thần tài ngoài đường về.docx
nên nhặt thần tài ngoài đường về.docx
 
khấn thần tài m 10.docx
khấn thần tài m 10.docxkhấn thần tài m 10.docx
khấn thần tài m 10.docx
 
tắm cho thần tài.docx
tắm cho thần tài.docxtắm cho thần tài.docx
tắm cho thần tài.docx
 
thờ 2 thần tài.docx
thờ 2 thần tài.docxthờ 2 thần tài.docx
thờ 2 thần tài.docx
 
tháp tỏi.docx
tháp tỏi.docxtháp tỏi.docx
tháp tỏi.docx
 
câu chú.docx
câu chú.docxcâu chú.docx
câu chú.docx
 
hình thần tài.docx
hình thần tài.docxhình thần tài.docx
hình thần tài.docx
 
số ông địa.docx
số ông địa.docxsố ông địa.docx
số ông địa.docx
 

di lặc.docx

  • 1. khiến cho người phải biết thời cục, nên gọi là tam dương khai tấu, Thanh Dương, Hồng Dương, Bạch Dương. Ngày nay liệu sở hữu phải là Bạch Dương Kỳ, chúng ta tham khảo lịch sử đương lại thì rõ. Thanh Dương Kỳ cô dâu mặc áo cưới màu xanh, số đông bài trí đều là màu xanh, màu xanh là màu cát tường. Hồng Dương Kỳ cô dâu mặc áo cưới màu hồng, trong phòng ngủ hay phòng khách đều sắp đặt màu đỏ, màu hồng là màu cát tường. Ngày nay là cô dâu mặc áo cưới màu trắng, điều này rất rõ ràng là Bạch Dương Kỳ rồi, thành ra chúng ta phải nhận biết Bạch Dương Kỳ và giai đoạn này Di Lặc thánh sư quản chưởng thiên bàn, Sư Tôn Sư cái chưởng đạo bàn và là Bạch Dương nhị tổ, thành ra chúng ta phải tu luyện thật tốt dưới thời Bạch Dương, đại đạo giáng thế là ứng thời ứng vận, cho nên tu đạo phải nhận biết địa lợi thiên thời. Dựa vào công pháp lên trời và xuống đất, biết được mình trong khoảng trên trời xuống và sở hữu thể từ mặt đất mà lên trời, biết được công cu li tam bảo, do vậy bây giờ chúng ta đang trong sự chuyển đổi giữa hữu hình và vô hình. Hữu hình chính là phần thân thể của chúng ta, vô hình chính là tâm niệm của chúng ta. Sau khi biết được các đạo lý này rồi thì tâm của chúng ta chuyển niệm, tương tự thì mỗi người sẽ từ chỗ giống như sắt mà chuyển biến thành vàng, thật sự là với thể biến sắt thành vàng. Lão loại sử dụng lời âm thanh từ bi yêu thương để gọi những người con chúng ta đây tỉnh, ko nên tiếp tục buông thả mình, tuy hiện giờ trong khi tu đạo vẫn là người, nhưng sau lúc phê duyệt đắc được 1 chỉ điểm thì giống như sắt điểm một mẫu thì biến thành vàng, trở nên thể kim cang bất hoại. Sau khi đắc đạo thì phải lập chí ở đạo, mỗi ngày thực tình, không khi nào rời khỏi đạo tâm và 3 bảo, như quân tử Nhan Hồi đắc được một điểm thì luôn khắc cốt ghi tâm , gìn giữ kỹ lưỡng để ko mất đi. Tam tai bát khổ bất lai xâm Tam (3) tai là thủy, hỏa, phong kiếp, Bát nạn là hạn hán, lụt lội, nạn đói, bệnh ôn dịch, châu chấu, mãnh thú tinh ma, ma quỷ…Nếu mỗi ngày chí tâm thường trì niệm thì sẽ tránh khỏi được tam tai bát kiếp và tam tai bát kiếp bỗng nhiên không tới sắp mình để xâm phạm, sở hữu tam bảo, mang tu thì được bình an vô sự. Yếu tưởng thần thánh Phật thường lễ bái Tu tam bảo phải ngộ lý tận tính ( ngộ được chân lý, tận chiếc phật tánh, thiên lý lương tâm của mình, thời thời điểm khắc không được rời khỏi dòng thiên lý lương tâm. Ngoài việc với thể tiêu tai giải nguy, mỗi ngày ko rời khỏi phật trục đường tự tánh, bỏ ác theo thiện, cải hối đổi thay trở
  • 2. thành người mới, khởi hành tâm từ bi độ hóa chúng sanh, khi còn tại thế thì giống y như phật mà tu hạnh ý trung nhân Tát, như vậy thì thành Phật ko sở hữu khó khăn. Thường trì sáng tạo trí óc tâm Phải thường xuyên gìn giữ thiên lý lương tâm, đối mang bên ngoài thi phải tai nghe, mắt Nhìn vào rõ ràng dương thế đang mỗi ngày biến hóa thay đổi và thiên ma vạn giáo đều đã xây dựng thương hiệu, đối nội phải bắt buộc diệu trí tuệ mà bản tính vốn sở hữu để suy đoán sự việc đúng sai, chánh tà mới sở hữu thể tránh bước vào con đường sai lầm mà nếu như nhỡ bước vào rồi thì ôm ấp nỗi ăn năn ngàn thu, với ăn năn cũng không kịp. Cẩm nang trong khoảng chiếc sở hữu nhắc chúng ta rằng : tới ngũ nào ấy lúc đại cục biến đổi 1 dòng, tiên nhân fake sẽ xuất hiện, đến khi ấy phải biết rõ ràng, cắn răng chịu chứa, bất nói pháp thuật của người đấy thế nào, chúng ta không nên tham ko nên vẳng tưởng, một tí cũng không chao đảo, chỉ cần tôn sư trọng đạo, nhận lý quy chân, trận đại khảo này là làm cho loạn đạo bàn, cũng là khảo nghiệm trí óc của mọi người. Do vậy mọi chuyện phải nghĩ suy tỷ mỉ và phân biệt rõ ràng, sau đó thật tâm mà khiến, không hành động tùy luôn tiện thiếu suy nghĩ, không tin nghe những lời yêu ngôn huỷ báng, như vậy thì bình an vô sự. Lao xuyên ý mã niệm vô sinh Tâm viên ý mã tức thị tâm của chúng ta rất loạn, rất phiền não, ấy đều là do dòng tâm viên ý mã của chúng ta tác oai tác quái, chúng ta phải làm tâm lắng tĩnh xuống, phải buộc chặt cái tâm viên ý mã này mới với thể tịnh tâm tu đạo, chính là cái công phu mà sách Đại Học kể : “ tĩnh định an lự đắc “, nghĩa là tâm phải tịnh trước rồi mới có định lực, định rồi thì mới an. Một khi chiếc tâm vượn đã định thì khi không trí tuệ với thể phát sinh, 1 tâm 1 ý ( 1 lòng một dạ ) giữ gìn đạo tâm, cộng có Lão cái trên trời tâm liền tâm, tức nhân tâm hợp với thiên tâm ( lòng người phải hợp với lòng trời ), đó gọi là “ nhân năng thường thanh tịnh, thiên địa tất giai quy “. Lão mẫu giáng trần chân thiên chú dụng ý trì niệm hữu thần thông
  • 3. Chân nhân của chúng ta được 1 điểm ở chỗ này , lại đắc được 5 tự chân ngôn ( vô tự chân kinh ), phải thật tâm thật ý giữ gìn trong tâm không lúc nào rời. Chúng ta phải tình thật kính ý mà trì niệm mẫu tam bảo này thì mới có thần thông. Kinh Kim Cang viết : như thị trú, thị giáng phục kì tâm. Chẳng những sở hữu thể giáng phục dòng tâm vọng niệm, nếu như lúc gặp hoạn nạn, thì chư thiên tiên phật sẽ tự đến giải cứu thoát ly khỏi tai kiếp. Mãn thiên tinh đẩu đô hạ thế Vô tự chân kinh là do Lão chiếc trên trời giáng xuống chân ngôn khẩu lệnh, với ai dám ko nghe theo. Lúc đại kiếp đến, mọi người tụng niệm 1 dòng sẽ động địa kinh thiên. Phần đông Chư thiên tiên phật tinh quân đều giáng xuống Đông Thổ thế gian, cứu độ thế nhân thoát kiếp. năm phương liệt tiên hạ thiên cung ko chỉ sở hữu mãn thiên tinh đẩu, ngay tới liệt vị thần tiên Đông Tây Nam Bắc Trung Ương đều cộng hạ thiên cung, tới Đông Thổ trần thế để trợ đạo cứu kiếp, đấy gọi là trên trời không lưu giữ một vị phật nào, toàn bộ đều được tổng cổ vũ xuống trần giới. Thành Hoàng là một chức thần của Minh Ty âm cung, mỗi nơi đều với, giống như sổ hộ tịch ở dương gian được thiết lập ở những phố, thị xã, làng. Thế nhưng con người sau khi chết linh hồn phải tới Minh Phủ Thành Hoàng để báo với mặt, bởi vậy ơn trên từ mẫn cho chúng ta tu trước đắc sau, giả dụ giống như trước kia phải tiên tu hậu đắc thì lúc đại kiếp đến trước mắt, làm gì còn kịp mà tu nữa. Thế nhưng có câu : Tu đạo ngày xưa, biết khó nhưng hành dễ, tu đạo hiện giờ, biết dễ nhưng hành khó. Lý do là vì thời cổ xưa cuộc sống đơn thuần nên tu đạo thuận lợi, nhưng khi lúc này thì đạo lại ẩn vì vậy đắc đạo khó. Bây giờ đại đạo phổ truyền, đắc đạo tuy dễ nhưng do toàn cầu muôn màu, cuộc sống phung phí, phải kiên trí mà tu, trước sau như 1 quả là rất khó. Bởi vậy biết và làm cho phải đi đôi sở hữu nhau. Con người ban sơ là từ Lý Thiên giáng xuống mà sinh ra trên đời, nên mới đề cập là có Phật tánh, Hoàng thai nhi. Xưa và nay cũng như 1, đắc đạo rồi thì sở hữu thể siêu sanh, phản hồi Lý Thiên mà phục mệnh. Bây giờ chúng ta đắc trước do vậy phải làm cho giấy má chuyển hộ khẩu, trong khoảng sổ dưới Địa Phủ di dời tới chỗ của Tam Quan Đại Đế, sau này khi quy ko, tới chỗ Tam Quan Đại Đế báo tới là được, cho nên tại chỗ đắc đạo viết biểu văn trình tấu Tam Quan Đại Đế, gọi là Thiên Bản ghi Danh, âm ti rút tên, đối hiệu xóa tịch. Tuy là chuyển dời hộ khẩu trước nhưng vẫn phải tâm thành
  • 4. thật ý, sớm muộn như một mà tu, gọi là thực lòng tu đạo trước sau như một thì thành đạo với dư, không nên giữa tuyến phố mà thối chí đạo tâm, lúc bị gạt bỏ khỏi hộ khẩu thì mang hối hận cũng không kịp. Tuy thiên bảng ghi danh, địa phủ rút tên, nhưng Minh Sư đã có kể nhở trước rằng : Ngu phu thành đắc hoàn hương đạo, sinh lai tử khứ kiến đương tiền. Vẫn phải xem hành vi tu tập của tư nhân mỗi người, đấy gọi là : Đạo do thầy truyền nhưng tu là do bản thân mỗi người. Tu thật hay tu kém chất lượng, một cử nhất động tuy với thể che mắt được bạn đồng tu nhưng ko thoát khỏi sự giám sát của luật pháp Chủ và Báo sự linh đồng, họ đều đại công vô bốn, tra xét rất rõ ràng, chuyển tấu lên thiên đình, khi đấy nếu là tu hành giả thì ko xong rồi. Tăng Tử viết : thập mục sở kiến, mười thu sở chỉ, kỳ nghiêm hô. Tam quan đại đế từ bi chú Tam Quan Đại Đế là 3 vị vua minh chủ hửu đạo thời cổ đại gồm : vua Nghiêu, Thuần, Vũ, với công có đời, Thượng Đế chia làm tam quan, Ngày 15 tháng giêng thượng nguyên : vua Nghiêu , nhất phầm tư phúc Thiên Quan; Tử Vi Đại Đế. Hạ nguyên 15 tháng thập, vua Vũ, Tam Khẩu giải ách Thủy Quan, Động Âm Đại Đế. Họ đều đại công vô tứ, thưởng phạt rành mạch rõ ràng, quản lý sổ biên chép công và tội, thiện và ác. Tam Quan Đại Đế rất trong khoảng bi, lúc biểu văn tới, bất nhắc là người đó đang tu hay chưa tu, 1 luật đều đăng ký ghi tên vào sổ. Xá tội tam tào cứu chúng sinh Kỳ này đại kiếp ập đến, Lão loại trên trời vì cứu chúng sanh, đặc khoan ân xá cho người tu đạo, nếu như với thể thật tâm hủ lậu, thực bụng cải hối, sửa sai đổi mới, trời với đức hiếu sinh, không giết mổ người cải hối, ơn trên tất sẽ xá tùng cho tội lỗi trước đây, ko đang tâm để 96 nguyên linh phật tử đọa lạc. Thành ra tu đạo có 3 phần thực tình thì trời sẽ với 7 phần cảm ứng, 7 phần tình thực thì với thể được điểm tròn, thật là cơ hội khó gặp. Cứu khổ thiên tôn lai cứu thế
  • 5. Đạo và kiếp cùng giáng, cũng là toàn cầu Phật và Ma, cũng là quá trình thanh toán hạ nguyên giáp tử, do vậy trong khi tu đạo khó hạn chế khỏi gặp phải chuyện ko tiện dụng, gọi là khảo nghiệm. Thế nhưng tu đạo chịu khảo chứ ko chịu tai kiếp, Kim Cang Kinh lục thập phân : nếu như làm cho người thấp kém tầm thường là do tội nghiệp kiếp trước của người, đúng ra phải đọa vào ác đạo, nay người đã chịu kém cỏi tầm thường nên tội nghiệp trước đây tức được xóa giảm. Do đó khảo nghiệm là thời cơ để tiêu oán giải nghiệp, ơn trên Lão mẫu trong khoảng bi phái cứu khổ thiên tôn hạ phàm tới cứu thế nhân. thân điểm văn bộ yết đế thần Di Lặc cứu khổ chân kinh khi lúc này, Kinh này vẫn chưa lưu truyền xuống, cũng là vì quá trình chưa tới. Mãi đến lúc Kim Công tiên tổ vào ngũ Dân Quốc thứ 15, ngày 3 tháng 3 hiển hoá mượn khiếu bày tỏ ra. Kim Công tổ tông chính là tổ tiên đời thứ 17, tức Bạch Dương tổ tiên, Minh Sư Lộ Trung nhất , người tỉnh giấc Sơn Đông, thị xã Tế Ninh, sinh vào 5 thứ 29 Thanh Đạo quang, nghĩa là trước ngũ 63 ( 5 1849 ) Tuế Thứ ghen tuông Dậu ngày 24 tháng tư đản sinh vào giờ ngọ, thánh hiệu “ Nho đồng Kim Công “, chúng ta gọi ngài là “ Kim Công tiên sư ”, đạo hiệu “ nam mô Thiên Nguyên Thái Bảo Na mô A Di Đà Phật “. Dân Quốc năm thứ 14 ngày 2 tháng 2 ngài thành đạo, Dân Quốc ngũ thứ 15 ngày 3 tháng 2, ngài mượn khiếu của Dương Xuân Linh ở Sơn Tây tới Sơn Đông hiển hoá 100 ngày. Trong vòng 100 ngày này không ăn gì hết, mồm nhắc “ Kim Công Diệu Điển “ và “ Di Lặc chân kinh “ , ấy là “ Kim Kê sơ xướng ( Gà vàng gáy lần đầu ), quyển “ Di Lặc Chân Kinh “ mới thấy xuất hiện trên đời. Ngũ Dân Quốc thứ 18 lại mượn khiếu của Đỗ Ngọc Côn ở Hà Nam, hiển hoá một tháng trời, ấy là “ Kim Kê nhị xướng “. Còn khi “ Kim Kê tam xướng “, Lão tổ sư sẽ đích thân đến bình thu vạn giáo, tức là vạn pháp quy một, trần thế sẽ thái bình. thời điểm Di Lặc tiên tổ giáng sinh lần trước nhất là 2500 ngũ về trước, xuất thân ở nước Ba La nài nỉ thuộc miền Bắc Ấn Độ. Cha của ngài là tể tướng của nước Ba La nề, Di Lặc là Sao Bắc Vương Chân Võ hạ phàm chuyển thế, cũng chính là giáo chủ của Vạn giáo quản trưởng thiên bàn lâu dài. Quốc Sư của nước Ba La năn nỉ ( Pháp sư Bà La môn giáo ) biết coi thiên văn, biết được sự việc này nên sinh lòng ghen ghét đố kị, ngụy tấu mang Quốc Vương rằng : Trong số các đứa trẻ sinh ra ở Nước ta hôm nay vào 3 canh giờ Tý Sửu Dần lúc đó có một đứa là do sao Ác Ma tới đầu thai, sau này to lên sẽ tranh giành giang sơn mang Quốc Vương, nên cần phải diệt trừ. Quốc Vương tin nghe lời nói của Quốc Sư, lập tức hạ một đạo thánh chỉ cho các Phủ Châu thị xã của cả nước phải làm thịt chết đầy đủ các đứa trẻ sinh vào 3 giờ tý Sửu Dần của ngày bữa nay. Thế nhưng thừa tướng cu li nhân cũng hạ sinh Di Lặc vào thời kì này bởi vậy sau lúc nghe bẩm báo thì tướng quốc và cu li nhân đều rất lo âu không im. Phu nhân tức thì kêu em trai mình đưa Di Lặc trốn ra nước ngoài, chóng vánh đề cập thừa tướng hạ lệnh phái 16 vị Võ Tướng hộ pháp cả đêm xuất Quan ải đem trốn ra nước ngoài nuôi nấng. Tới khi 7 tuổi, dì của Di Lặc dẫn ngài và 16 vị tùy Tướng đi theo cùng tới tham bái đức Phật Thích Ca Mâu ni. Sau khi thọ ký xong, chỉ độc nhất ngài Di Lặc là ko kể vào hàng môn sinh, bởi vì Phật Thích Ca Mâu mi biết rằng ngài Di Lặc chính là vị tổ tông 3000 5 sau sẽ hạ thế chưởng Thiên Bàn và thâu viên. Khi lúc này, Phật Thích Ca khởi đầu giảng thuật lại 3000 năm sau Di lặc sẽ hạ thế cứu khổ cứu nạn, phổ độ 96 duyên cớ phật tử. Toàn bộ mọi người vào thời điểm ấy phải tái hạ thế chuyển sanh làm người để được ngài thọ ký mới với thể thật sự thoát khỏi phàm è, miễn khỏi lưu lạc trong bể khổ
  • 6. sinh tử luân hồi lần nữa. Mẫu này rất quan yếu bởi vì sau 3000 ngũ giả dụ không chuyển thế hạ phàm để được Di Lặc Phật thọ ký thì chúng ta sẽ ko mang cách thức nào thoát ly sinh tử luân hồi. Thành ra đức Phật Thích Ca Mâu ni đã nhắc khi bấy giờ để giải thích rõ vào thời Tam Kỳ mạt đời Di Lặc thánh sư sẽ quản chưởng Thiên bàn, thu nhận 1 con đường Kim Tuyến đại đạo truyền trong thời Tam Kỳ mạt đời. Ấy gọi là bàn việc Mạt Hậu 1 Trước Thâu viên đại sự, phụng thừa lệnh của Lão loại mà đại khai phổ độ, từ khi trung Quốc phổ truyền các nước trên thế giới. Đoạn này là 1 đoạn mà 2500 ngũ về trước đức Phật Thích Ca Mâu mi đã đề cập tới, điều đó cũng chứng giám rằng 2500 năm về sau, Phật Di Lặc vào thời Tam Kỳ mạt kiếp sẽ đến người đời, trên trời thì quản chưởng Thiên bàn, nơi dương gian thì bàn chuyện Thâu Viên Đại sự, bởi thế mới gọi là Phật đề cập. Vì vậy bộ kinh này là bộ kinh do Phật đề cập, ko phải lả người bình thường tùy luôn thể viết ra. Ở trên là kinh do Đức Phật Thích Ca Mâu mi đã kể đến 2500 5 về trước. Tiếp theo là Quyển Di Lặc Cứu Khổ Chân Kinh lại mang một bối cảnh nhân duyên khác. Đông Phương tổ tông đời thứ 17 là Kim Công tổ sư, tôn hiệu là na mô thiên Nguyên Thái Bảo Nam mo A Di Da Phat, cũng với nghĩa rằng Đức Phật Di Lặc đã tới trần giới rồi, cũng mang tức thị thời điểm mà 2500 5 về trước Đức Phật thích Ca Mâu mi từng nhắc cho đến nay đã đến rồi. Đông Phương tổ sư đời thứ 17 là Kim Công cha ông chính là do đức Phật Di Lặc hóa thân chuyển thế vào sau công nguyên ngũ 1849, 5 Tuế Thứ Kỷ Dậu tuổi gà, nên mới có câu nhắc là Kim Kê Tam Xướng. Kim Kê một Xướng 5 1926 sau công nguyên : ngày 2 tháng 2 năm 1925, Lộ tổ sư quy ko, đến ngày 3 tháng 3 5 1926 tức là 1 ngũ sau, Lộ Tổ mượn khiếu của cô Dương Xuân Linh ở tỉnh Sơn Tây đến Sơn Đông Tế Ninh hiển hóa, tổng cùng 100 ngày không ăn không uống, miệng nhắc Kim Công Diệu Điển và quyển Di Lặc Cứu Khổ Chân Kinh này để truyền lại cho thiên hạ. Thành ra quyển Di Lặc cứu khổ chân kinh này ko nằm trong bộ Đại tạng Kinh mà Đức Phật Thích Ca Mâu ni đã từng đề cập. Bởi vậy trong Kinh Điển không thể tậu thấy bộ kinh nay. Nhưng khi nãy chúng ta sở hữu kể đến 2500 5 trước đây đức Phật Thích Ca từng đề cập đến. Đồng thời, trong 100 ngày đó, 2 tay của cô Dương Xuân Linh cầm hai cây bút lông cùng một lúc viết nên 2 câu đối bằng chữ Triện. Cách viết thế này : 2 tay cầm 2 cây bút lông rời xa mặt giấy, mực rớt từ trên cao xuống, sau đấy thì thành 2 câu đối : Vũ đả hà hoa phụng điểm đầu. Dương Xuân Linh 100 ngày sau thì được Kim Công thánh sư đưa về trời.
  • 7. Đây gọi là kim Kê 1 xướng ( gà vàng gáy lần thứ 1 ) Trải qua 3 năm sau thì kim kê Nhị xướng : ngũ 1930 sau côn nguyên, cha ông lại mượn khiếu của 1 đứa ở Hà Nam tên là Đỗ Ngọc Khôn trong khoảng Hà Nam chạy đến Sơn Đông. Khi lúc này không với máy bay hay xe để ngồi, ở Sơn Đông ngài lại độ hóa và thành toàn đạo thân, sau đấy người này lại bặt tăm biệt tích, không một ai biết là đã đi đâu. như vậy, ở Trung Quốc Đại Lục lúc bây giờ do với số đông hiển hóa nên đã với số đông người cầu Tam Bảo. Sau này Kim Kê Tam xướng là phải đợi tới lúc Đại Đạo minh hiển, mọi người đều mang đạo, thế giới đại đồng thì các người tu đạo mà có công ơn sẽ vừa được hưởng hồng phúc vừa thừa hưởng thanh phúc ( thành thần thánh hiền tiên phật ), lúc ấy sẽ ko còn địa lao tù nữa, Sau khi ở thiên hạ thì lại quay về thiên đàng. Vì vậy chúng ta rất sở hữu Phật duyên mới gặp được Phật xuất thế, tức là chúng ta đã theo kịp thời đại mà Phật Di Lặc đến dương thế để độ hóa chúng sanh. Hiện giờ chúng ta bắt đầu đi sâu vào bài kinh. Di Lặc hạ thế bất phi khinh Vào thời Bạch Dương kỳ Di Lặc giáng thế, là thời Tam Kỳ mạt kiếp , thời này tại sao Di Lặc phải hạ thế ? Vì tai kiếp của chúng ta ngày càng nhiều và hiểm nguy, vì thế Phật trong khoảng bi muốn chúng ta mau chóng bình an về nhà, thành ra đây là một chuyện rất trọng đại chứ chẳng phải là chuyện thường nhật. Khi chúng ta cầu tam bảo có nhẽ chúng ta vẫn chưa chú ý tới, mẫu đoạn lúc mà điểm truyền sư bàn đạo có phó chúc :Mạt hậu 1 trước tích vị ngôn, Minh nhân tại thử tố 1 phiên. Ngu cu li thức đắc hoàn nhang đạo, sanh lai tử khứ kiến đương tiền. nghĩa là : trước đây chưa bao giờ nhắc đến chuyện đại sự sau này. Minh nhân chính là Sư Tôn và Sư mẫu của chúng ta lúc thỉnh đàn mang đến đề cập rõ cho chúng ta : tuy chúng ta đều là các người thông thường, nhưng nếu chúng ta sở hữu cầu qua tam bảo thì biết được phải đi các con phố như thế nào để có thể về trời. Chúng ta đã sở hữu cầu qua tam bảo đều biết được bảo thứ 1 chính là chỗ thư hùng tức thì. Do đó nếu các ai chưa cầu tam bảo thì dù chúng ta với nói có họ, họ cũng chẳng hiểu. Trong Kinh Di Lặc cứu khổ chân kinh đều nói về việc chúng ta khiến thế nào để về trời, chúng ta phải cầu Tam Bảo. Trong ấy đều mang thiên cơ.
  • 8. Lãnh bửu Tề Lỗ Linh Sơn Địa Lãnh mang tức là Minh sư thọ lãnh lệnh của Lão chiếc, truyền thụ khẩu truyền tâm ấn, Tam Bảo ( Quan, quyết, ấn ) , ở Tề Lỗ, tức là Sơn Đông hiện giờ, là thần thánh địa mà từ xưa có rộng rãi thánh Nhân xuất hiện 1, bởi vậy thánh sư lãnh thiên mệnh truyền thọ mệnh cũng đều xuất thân ở Sơn Đông ( đa dạng 1 ) , như tiên sư cha đời thứ 17 , Lộ Tổ chính là xuất thân ở Sơn Đông quận Tế Ninh. Tiên tổ đời thứ 18, Sư Tôn của chúng ta cũng xuất thân ở Sơn Đông quận Tế Ninh. Sư cái cũng xuất thân ở tỉnh giấc Sơn Đông. Thế nhưng các người thọ mệnh thì ở Linh sơn địa của mỗi người. Phật tại linh sơn mạc viễn cầu Linh sơn chỉ tại nhữ tâm đầu Nhân nhân hữu cá linh sơn tháp Hảo hướng linh sơn tháp hạ tu mẫu này khi chúng ta cầu tam bảo đã biết rồi. Linh sơn địa chính là huyền quan khiếu của từng người. Chuẩn y Minh sư 1 chỉ điểm mở ra chỉ cần tu thật phải chăng ở núi Linh Sơn tu tâm luyện tính, hành công lập đức, lúc tuổi thọ đã hết, linh tánh tự dưng sẽ đi ra trong khoảng cửa chính, miễn được phải chịu nỗi khổ luân hồi, với thể quy căn phục mệnh . Đây là bài thơ ám chỉ của Quan Thế Âm người tình Tát tiêu dùng để nhắc có phần lớn các người tu hành, ý đề cập rằng số đông mỗi người chúng ta đều mang 1 núi Linh Sơn và ko một mực phải đi tới nơi xa xăm để cầu. Nhưng ví như mình chưa cầu qua tam bảo thì mình cũng không mang phương pháp nào biết được khiến cho thế nào để tu ở dưới tháp Linh Sơn. Điều này cũng có nghĩa rằng Quan Thế Âm người tình Tát trước đây cũng từng mang cầu tam bảo do sư phụ truyền cho, nhưng do đây là thiên cơ bất khả lộ nên Quan Thế Âm ý trung nhân Tát cũng không dám mách nhỏ, nhưng Quan Thế Âm người thương Tát từ bi rất muốn cho mọi người biết nên mới viết lưu lại bài thơ này, chỉ là xém một tẹo chút, nhưng tuy xém một tí chút mà không sở hữu Minh Sư một chỉ điểm thì cũng ko sở hữu cách nào. Hiện nay là thời kỳ phổ độ nên chúng ta với thể lấy ra nghiên cứu. đó gọi là Thượng đẳng tu hành ngộ giác tính, trung đẳng tu hành chấp văn tự, Hạ đẳng tu hành trọng hiển hóa, Mạc chấp hình tượng quy ngẫu nhiên. Tức thị đạo pháp tự dưng. Cho nên lúc bây giờ lúc Đức Phật Thích Ca Mâu ni truyền thụ là đơn truyền độc thụ. Trước hết phải sử dụng phương pháp thăm dò, sử dụng pháp niêm hoa vi tiếu , tuyển chọn vật truyền thụ.
  • 9. Đây là chỉ lúc đức Phật đang giảng đạo ở núi Linh Khứu Sơn. Khi bây giờ có hầu hết môn đồ đang nghe kinh trong lần mở pháp hội thứ 16, mang hơn 3000 đồ đệ và đức Phật cầm 1 đóa hoa mỉm cười. Cả hơn 3000 môn đệ đều không hiểu được ý của ngài, sau đó đại môn đệ là ngài Ma Ha Ca Diếp hiểu được ý bèn mỉm cười, bởi thế đức Phật Thích Ca bèn truyền chánh pháp và y bát cho đại môn đệ Tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Trong giáo gọi là giáo ngoại biệt truyền, trước đây giảng kinh thuyết pháp đông đảo, đề cập phần đông những giáo pháp nhưng bên trong đấy đều ko với cách nào đề cập tới diệu pháp này. Do đó, xưa kia phải tu trước rồi ngộ ra được chỗ thiền cơ sau đấy mới đắc chân truyền. Bữa nay, chúng ta đắc trước tu sau, nhẹ nhàng hơn đa dạng rồI nên mới nhắc : Đạp phá thiết hài vô mịch sứ, đắc lai toàn bất phí công phu。 Đi mòn nát cả đôi giày thép cũng ko với cách thức nào mua thấy Đắc được rồi nhưng hoàn toàn không phí tí công cu li Tuy rằng chúng ta dễ mà đắc được nhưng chúng ta phải đi từng bước kiên cố, chăm chỉ tu luyện chứ không biếng lười, trước sau ko dừng, sau này nhất thiết có thể ấn chứng, từ công quả ít đa dạng, trải qua khảo nghiệm thành công mà được liệt vào quả vị 3 thừa cửu phẩm liên đài. Do vậy muốn sở hữu quả vị là chúng ta phải khởi đầu tu trong khoảng ngày nay. Mai sau liên phẩm của mình cao lớn như thế nào là phải xem mình kiếp này khiến như thế nào cũng chính là 3 người đồng hành tất sẽ sở hữu người là thầy của chúng ta, chính là chỗ mà ta phải hạ công phu tu luyện, chính là chỗ mà ta sở hữu thể tương thông sở hữu trời. Chỗ mà trời tương thông sở hữu chúng ta chính là chỗ mà chúng ta bắt đầu sở hữu tinh, khí, thần. Từ phương thôn bảo địa này hướng lên trên thì là trời, hướng về chúng ta đi xuống thì là tinh, khí, thần. Trong kinh kim cang với đề cập : Như thị chú, như thị giáng phục kỳ tâm, vô sở trú nhi sinh kỳ tâm. Phần đông đều là quy ở Tam Tinh Địa. Nhân đắc một vi đại, trong khoảng chỗ này mang thể chứng phật chứng thánh, Kinh Kim Cang chỉ thị “ Xá Vệ Thành “ chính là giữa mắt, tai, mũi, mồm, khiếu chính giữa của thất khổng bát khiếu. Vì vậy tu đạo phải đóng bốn cánh cửa sổ này lại. Bên ngoài thân người có 3 con sông : tham, sân, si mê ; bên trong gồm mang : tinh, khí, thần
  • 10. bởi thế tu đạo phải phản bổn quy nguyên ( đi ngược cái, kiếm tìm dòng chảy thứ 4 ) . Vương là lấy tánh Vương khiến cho trọng. Tánh vương như mẫu lõi ( ruột ) của quả đào và là hạt giống. Ruột quả đào ví như bị hư hoại thì chẳng thể mọc rễ nảy mầm, không thể nào to lên và kết ra quả ( vì thế tu đạo phải kiếm tìm thiên tâm, bản tâm ). Lương tâm của con người cũng như lõi của quả đào vậy. Mạnh Tử kể : người không có trắc ẩn tri tâm thì ko phải là người, ko là người tức thị bốn sanh. bởi thế đó là để ấn chứng cho chúng ta làm cho thế nào để sắm được tánh vương của mình, khiến cho thế nào để quay đầu là bờ và phải tu như thế nào. Vào thời kỳ ứng vận này, hai vị Phật Thiên Chân chính là kể về Sư Tôn, Sư mẫu của chúng ta, nghĩa là khi không Cổ Phật và Tố Chân Cổ Phật, lãnh thiên mệnh phổ độ 96 nguyên phật tử, hiệp trợ Di Lặc tiên sư cha thâu viên. Khi chúng ta tới cầu Tam Bảo đều phải đến chỗ của Sư Tôn Sư dòng để quải thần thánh Hiệu ( quải thánh hiệu là đăng ký, đăng ký tên trên thiên đàng và rút bỏ tên dưới âm ti ), ấy là 1 giấy má cầu Tam Bảo của trời, phải có Thiên Mệnh Minh Sư đăng ký cho. Sau khi đăng ký xong mới được vào cầu nguyện Tam Bảo. Đăng ký xong thì lại phải chờ tới khi điểm thần binh. Bởi vì đăng ký xong thì phải khởi đầu thỉnh đàn mời Lão cái, Chư Thiên Tiên Phật và rất nhiều thánh đều tới Phật tuyến phố, do đó gọi là điểm thần binh. Đợi tới khi mạt kiếp đến thì đại đạo cũng giáng thế, vì vậy đại đạo phi thời bất giáng. Tới thời khắc này cũng chính là toàn cầu Phật và Ma, vì đang vào quá trình trả tiền Hạ Nguyên Giáp Tử, đồng thời Tam tào phổ độ, sở hữu thể nói trên quả trái đất này đều rất loạn, hồ hết đều muốn tới cầu đạo, có khí thiên thần đến tậu người có duyên để siêu bạch, tiên nhân của mỗi người cũng tranh thủ muốn được con cháu mình siêu bạch, chủ nợ cũng tranh thủ sắm tới đòi nợ, cho nên truyền giáo phải rất nghiêm chỉnh cẩn trọng. Phải mang Thiên Mệnh Minh Sư ( Điểm truyền sư thay thế cho thầy ), dựa vào thiên mệnh để thỉnh đàn, thay Lão mẫu tuyên chỉ, thỉnh chư thiên thánh tới đàn, nhị 10 bát tú hộ pháp đàn, mới sở hữu thể bắt đầu bàn đạo, điểm truyền tánh lý tâm pháp, truyền thụ tam bảo. khi đó, sau khi thỉnh đàn xong, Tiên Phật tới hầu hết để hộ pháp đàn, thì thầy của chúng ta bắt đầu truyền cho bảo thứ 1. Vân tức thị nước, Lôi tức là hỏa, khi chúng ta vẫn chưa ra khỏi bào thai thì vẫn là càn khôn chính vị. Sau lúc trong bào thai đầy 10 tháng và sinh ra ngoài thì dòng điểm Tiên Thiên Khí này sẽ từ Huyền Quan Khiếu mà nhập vào trong cơ thể, trong khoảng đấy trở đi thì điểm Huyền Quan Khiếu của chúng ta bị đóng lại, không sở hữu cách nào trong khoảng cánh cửa này để quay về trời. Bởi thế nếu không do Minh Sư điểm khai mở ra thì là cánh cửa không với cửa. Chỗ Huyền Quan Khiếu xem ra thì như là ko với cửa nhưng thật ra là sở hữu một khiếu thông thiên, cho nên chấn khai Trung Ương Mậu Kỷ Thổ chính là ý : loại vô phùng Khóa của Minh Sư mở ra Huyền Quan khiếu chính là đã mở ra món bảo vô giá. Thiên hạ thần quỷ bất an ninh
  • 11. dòng tam bảo quý giá tương tự, với thể siêu sanh liễu tử, vì vậy kinh động quỷ thần trong dương gian, khiến cho họ cũng phải gấp rút kiếm tìm người sở hữu duyên với mình trước đây để siêu bạch giùm. Đương nhiên nếu con chiếc của mình đang tu đạo thì siêu bạch thuận lợi, ví như ko vẫn phải đi tìm người với duyên, vì thế lúc còn thân người thì phải chóng vánh mà cầu Tam Bảo, tâm thành mà tu luyện, vì tổ sư của mình cũng đang chờ đợi ko yên. Thần và quỷ vẫn còn nằm trong lục đạo luân hồi, chưa được siêu sanh liễu tử, thành ra họ đều rất khẩn trương bất an. vì vậy, một tử cầu đạo, cửu huyền thất tổ đồng chiếm quang. Trước thời mạt kiếp nếu như ko đắc được đạo, tới lúc thời khắc tới rồi thì mọi thứ coi như xong, khó trách thần quỷ cũng bất an mà đứng ở không lặng. Thân tại nhân thiên trung hoa dòng Thân tức là thân cận. Sau khi ưng chuẩn đắc đạo, khi Tý Hợi tương bao ( hiệp đồng chữ Hài ), mới phát giác hoài tưởng tới Lão cái trên trời, cũng mới biết được trên trời còn với 1 người Mẹ sinh ra linh tánh của chúng ta, do đó người nhà một vẫn là người mẹ trên trời của chúng ta. Nhân chính là lõi của trái đào ( tính của một người ), Trung Dung viết “ Thiên mệnh chi vị tính “. Điểm linh tánh này là từ trên trời giáng xuống trần giới, trước đây chúng ta đều ngộ nhận là do âm phủ chuyển sinh, cho nên cõi trần mới đề cập : dương thế chết một người thì tuyền đài thêm 1 con quỷ, lại kể người chết là khuất. Bữa nay đại đạo giáng ở Trung Hoa Dân Quốc, do vậy Sư loại của chúng ta mới xưng là Trung Hoa thần thánh loại, chúng ta phải theo trục đường kim tuyến của Sư Tôn Sư dòng mà tu thật rẻ. Câu này là chứng giám tam bảo mà chúng ta cầu hôm nay có thể chứng thánh giáo Cửu Phẩm Liên đài sau này, cũng là quy về pháp môn tối thượng thừa ( cao một ) . Thánh giáo nghĩa là tánh lý tâm pháp, theo Kinh Long Hoa chứng giám : Thiên Chân thu viên bất phi khinh, thập tự thác cửu liên kinh, cửu tự nhai tiền bả hiền điệu, cửu liên khai ư bái vô sinh. Cửu phẩm liên đài muốn nở hoa thì nhất định phải tậu được vô cơ Lão chiếc, chính là cội rễ, nếu như ko có cỗi rễ thì không thể khai hoa. Giả dụ hoa sen ko sở hữu cỗi rễ thì ko sở hữu phương pháp nào nở hoa. Sư Tôn Sư chiếc bàn thu viên Tam Tào phổ độ xưa nay chưa từng sao nhãng khinh xuất, thập tự giá được một điểm thì với thể chứng cửu phẩm liên đài Thiên hoa lão cái thuỳ ngọc tuyến Thiên có tức là Lý Thiên, Hoa mang nghĩa là hoa sen, 96 nguyên linh giống như từng đóa từng đóa hoa sen vậy. Lão dòng từ bi muốn cứu độ 96 Nguyên Linh, bởi thế mới giáng 1 sợi Kim Tuyến đại đạo, cũng chính là Di Lặc cứu khổ Chân Kinh và 3 Bảo.
  • 12. thu viên hiển hoá tại cổ đông Tam kỳ ứng vận của quá trình này, tam tào phổ độ, cũng chính là kỳ rốt cuộc một Mạt hậu một trước, ngày nay ngày thu viên gần đến, cũng là lúc đạo và kiếp đồng giáng, đại đạo giáng xuống nước cổ Đông Thổ ( Đông Phương Cổ Đại – Đài Loan ), ở chỗ Trung Hoa thần thánh Địa Sơn Đông. Vào lúc đó cũng như bây giờ đều có số đông mẫu hiển hóa đang hiển thần thông để cứu kiếp, độ 96 nguyên do về trời. Ở Đài Loan đều sở hữu đông đảo tiên phật đến trợ giúp, và hiện giờ cũng sở hữu hầu hết Tiên Phật tới trợ giúp, giúp cho mọi người đều sở hữu thể cầu được Tam Bảo Nam Bắc lưỡng cực liên tông tự mẫu chánh pháp nhãn tàng, bất nhị pháp môn của Phật giáo là do Đạt Ma tổ tông truyền trong khoảng Ấn Độ tới Trung Quốc, cho đến sau tiên sư ngũ Tổ Hoằng nhẫn thì chia làm Tông phái hai nhà Nam Bắc. Phương Nam do Lục Tổ Huệ Năng truyền đốn pháp, tính lý tâm pháp khẩu truyền tâm ấn, tức thị đắc đạo trước rồi mới tu đạo sau, chính là tu Di Lặc “ cõi trần tịnh thổ “, trong khoảng hậu thiên quay về tiên thiên, pháp môn tu tại gia trong khoảng nhân đạo mà đạt tới thiên đạo. Phương Bắc do Thần Tú truyền cho tiệm pháp, tu Di Đà “ tây phương tịnh độ “ , chính yếu là niệm kinh vãng sanh tây thiên cực lạc toàn cầu. 2 pháp môn : đốn pháp và tiệm pháp hiện tại phải liên kết lại có nhau. Đạt Ma tiên nhân có bài thơ làm cho chứng : Đạt Ma tây lai nhất tự vô, toàn bằng tâm ý dụng công cu li, nhược tùng chỉ thượng tầm phật pháp, bút can trám cạn động đình hồ. Lại viết : Ngô bản lai từ thổ, truyền pháp độ mê tân, 1 hoa khai 5 diệp, kết quả khi không thành. ( Ta đến trong khoảng nơi này, truyền pháp độ chúng sinh mê muội, Thời đại này bất kỳ Nam Tông hay Bắc Tông hay năm giáo trước đây đều phải quy về 1. Kết quả là vạn pháp đều phải quy một. chiếc cổ sách này chính là loại điểm linh tánh của mỗi người, là do trong khoảng trên trời giáng xuống đi vào bên trong Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Huyền Quan Khiếu. Chỗ xa xưa một chính là chỗ Trung ương mậu kỷ thổ của chúng ta, cũng chính là Huyền Quan Khiếu của chúng ta, thành ra chúng sanh giai hữu phật tánh, cũng đều do một mẹ sinh ra, sau đó do bị môi trường hậu thiên làm mê muội, dẫn tới tham luyến cảnh sắc trần giới mà tạo nghiệp chẳng thể phản hồi bản nguyên ( nguồn gốc ban đầu ) vì thế mới thành chúng sanh.
  • 13. Lão loại giáng thế thông thiên chú Lão mẫu giáng hạ thông thiên khiếu là vì con ngưởi giáng sinh nơi cõi trần này đã hơn 60000 ngũ rồi, các thâm độc đã tạo tích lũy lại chất cao như núi, vì thế mãi mãi vẫn chỉ là chúng sanh mà thôi, không thể thành Phật được. Bây giờ kỹ thuật càng vững mạnh, nhưng ngược lại, đạo đức của con người càng ngày càng đọa lạc, nhân tâm bất cổ, tai kiếp liên hồi, dẫn tới ngày tận thế gần tới. Lão chiếc trên trời ko đang tâm để thiện ác cộng chết chung, nên đích thân hạ chỉ giáng thế 1 con đường kim tuyến, trực chỉ kiến tánh, kiến tánh thành phật, vì vậy huyền quan còn gọi là thông thiên khiếu, khởi thủy được một điểm thì ai cũng sở hữu thể quy căn nhận cái, thoát ly khổ hải, không cần phải tiếp tục quay trở lại thế giới này để làm cho chúng sanh. Vô ảnh sơn tiền đối hiệp đồng Vô ảnh sơn chính là kể về loại Linh Sơn Tháp của chúng ta, chính là song lâm thụ. Song lâm thụ là dưới 2 gốc cây Sa La nơi mà lúc trước Đức Phật Thích Ca Mâu ni nhập nát bàn. Tử Trúc Lâm chính là đạo trường của Quan Thế Âm ý trung nhân Tát, cũng chính là kể tới nơi cư ngụ của Phật tánh chúng ta. Tuy là tiếp nhận trực chỉ kiến tánh, nhưng chúng ta vẫn phải chăm chỉ tu luyện. Khi khấu đầu thì hiệp đồng của chúng ta phải đối xứng mang huyền quan khiếu. Anh nhi yếu tưởng quy gia khứ Anh Nhi chính là cách gọi yêu thương trìu mến của Lão mẫu trong khoảng bi trên trời dành cho chúng ta. Chúng ta đều do cộng 1 mẹ sinh ra, vì thế chúng ta đều là con loại của trời, gọi là cửu lục hoàng thai nữ nhi. Lão cái trong khoảng bi nhắc với chúng ta rằng, đây là thời cơ trong hơn 60000 năm mới sở hữu 1 lần, ví như muốn quay về quê hương Lý Thiên thì phải đi nhận lại người mẹ, nghĩa là phải mau chóng cầu tam bảo. Trì niệm đương lai Di Lặc kinh
  • 14. Trời có tam bảo : Nhật, Nguyệt, Tinh, Đất sở hữu tam bảo : thủy, hỏa, phong, người có tam bảo : tinh, khí, thần, đạo với tam bảo : Quan, quyết, ấn. Đoạn trước đã đắc được 2 bảo, còn đang thiếu 1 bảo chín h là Di Lặc Chân Kinh, chân kinh không tụng trên giấy, nên gọi là Vô tự chân kinh, Quan thần thánh Đế Quân viết : “ Phùng tỏa khai khai, chân nhân Vậy là tam bảo đã hồ hết, mang thể hạn chế kiếp, quy căn nhận loại, chú ý “ trì niệm “ bảo trì trong tâm, không phải là niệm ra ngoài mồm, chân kinh ghi nhớ trong lòng, mặc niệm là được rồi, thời thời khắc khắc ko được quên. dụng tâm trì niệm Phật lai cứu Chỉ cần sau khi đắc đạo mình chân tình bảo thủ, tình thật tu luyện, dụng ý mặc niệm chân kinh, trong giai đoạn tu đạo nếu như gặp phải hoán vị nạn to nhỏ, Di Lặc tiên tổ sẽ phái Tiên Phật đến hộ cứu