Có một sự thôi thúc nội tâm buộc tôi phải dịch lại cuốn sách này. Cho bản thân tôi, cho gia đình, cho bạn bè và các đối tác của tôi, vì mọi người đều rất quan trọng (tất nhiên ở các mức độ khác nhau) đối với hạnh phúc và thành công của tôi.
Có một sự thôi thúc nội tâm buộc tôi phải dịch lại cuốn sách này. Cho bản thân tôi, cho gia đình, cho bạn bè và các đối tác của tôi, vì mọi người đều rất quan trọng (tất nhiên ở các mức độ khác nhau) đối với hạnh phúc và thành công của tôi.
A Not-So-Pretty Presentation with a Very Good TipTeachU
People are afraid of having too many slides in a presentation. Often, there is an imposed rule by their 'superiors' about having the fewest possible slides. I say that's nonsense. Break the rules! But never, ever go over your time allotted. Here's why you should consider having a lot more slides.
A Not-So-Pretty Presentation with a Very Good TipTeachU
People are afraid of having too many slides in a presentation. Often, there is an imposed rule by their 'superiors' about having the fewest possible slides. I say that's nonsense. Break the rules! But never, ever go over your time allotted. Here's why you should consider having a lot more slides.
TẶNG MIỄN PHÍ Trọn Bộ Audio book cuốn sách "Dạy Con Làm Giàu" Full 13 Tập
Bộ sách “Dạy con làm giàu” (Rich Dad, Poor Dad) của Robert Kiyosaki là một bộ sách rất nổi tiếng về tài chính cá nhân và làm giàu. Trong bộ sách này, Kiyosaki chia sẻ về quá trình ông học hỏi và tiếp thu từ hai người cha khác nhau – Một người giàu có và một người thu nhập thấp.
https://chagiauchangheo.club/tang-mien-phi-tron-bo-ebook-day-con-lam-giau-full-13-tap/
#dạyconlàmgiàu #chagiàuchanghèo
Bộ sách dạy con làm giàu. Giúp bạn có cái nhìn sơ lượt về tài chính, kế toán, tài chính một cách dễ hiểu.
Một khi đã nẵm vừng kiến thức về kế toán tài chính để làm chủ được dòng tiền bạn thì chuyện làm giàu sẽ dễ hơn
Cuốn sách bí mật tư duy triệu phú cực hay sẽ thay đổi suy nghĩ và cuộc đời bạn.
www.càiwin8.vn - dịch vụ cài win tại nhà giá chỉ 99.000 uy tín chất lượng hiệu quả, nơi bạn gửi gắm công nghệ.
Nguoi tre nen lam gi de vuot qua ap luc tai chinhRedBag Việt Nam
RedBag biết bạn đang có những trăn trở và áp lực về tài chính mỗi ngày. Thế nhưng tiếp tục né tránh vấn đề không phải là cách. Bản thân sự áp lực đó không đáng sợ. Đáng sợ là bạn không biết bản thân mình đang gặp áp lực gì trong tài chính và làm cách nào để vượt qua chúng.
Tu duy ve tien dung roi tien se den voi ban sauRedBag Việt Nam
Người Việt Nam thường ngại nói về tiền và xem đây là một vấn đề tế nhị trong cuộc sống. Tiền nếu được hiểu đúng cách sẽ giúp ích cho chúng ta rất nhiều trên hành trình quản lý tài chính cá nhân. Bạn đang tư duy thế nào về tiền? Làm thế nào để biết đó là tư duy đúng đắn hay sai lầm?
Dạy con làm giàu Tập 1 Phần 06 là " Chương 9: Sự Khởi Đầu & Chương 10: Vẫn Còn Muốn Nhiều Hơn Đây Là Một Số Việt Phải Làm " của cuốn sách Dạy Con Làm Giàu Tập 1
1. NGƯỜI NGHÈO NUÔI NGƯỜI GIÀU – CHƯƠNG 00 – LỜI
MỞ ĐẦU
NGƯỜI NGHÈO NUÔI NGƯỜI GIÀU
CHƯƠNG 00 LỜI GIỚI THIỆU
Chào các bạn, tôi tên là Nguyễn Học Viên. Tôi lớn lên
trong một gia đình nông dân ở miền quê nghèo thuộc
vùng đất Babylon. Từ nhỏ tôi đã khát khao tìm một con
đường làm giàu chân chính để thoát khỏi cảnh túng quẩn
của gia đình. May mắn, tôi đã gặp được một người đỡ
đầu, người đã dạy cho tôi tất cả những kiến thức tài
chính ngay từ khi tôi 15 tuổi. Người có tên là Người Đỡ
Đầu.
Bây giờ, tôi đã hoàn toàn tự do tài chính. Vì thế, tôi
muốn kể lại tất cả những gì mà Người Đỡ Đầu đã dạy cho
tôi. Tôi tin rằng, quyển sách này sẽ giúp bạn có một góc
nhìn khác về BÍ MẬT THỊNH VƯỢNG TÀI CHÍNH, mà
những diễn giả khác chưa đề cập, hoặc đề cập chưa sâu
sắc. Từ đó, bạn có thể lựa chọn và xây dựng Con Thuyền
Tài Chính một cách phù hợp nhất đối với bạn.
2. Lời cuối cùng, tôi muốn nói với bạn rằng: “Làm giàu
không khó, nhưng nó không hề dễ dàng như nhiều diễn
giả khác đã nói với bạn. Làm giàu là một quá trình lâu dài,
đòi hỏi nhiều nổ lực, cố gắng bền bỉ, không ngừng học
hỏi, đổi mới kịp thời để thích ứng với sự thay đổi của môi
trường. Nhưng may mắn là làm giàu là một quá trình có
thể học được. Bạn chỉ cần học, kiên nhẫn thực hành, bạn
sẽ giàu được.”
Cảm ơn bạn đã đọc sách này. Và nếu bạn tin tôi, tôi
chúc mừng bạn đã rút ngắn được quá trình THỊNH
VƯỢNG TÀI CHÍNH.
Xem tiếp Chương 01 – NGƯỜI NGHÈO LÀ ĐẦU VÀO CỦA
NGƯỜI GIÀU
3. NGƯỜI NGHÈO NUÔI NGƯỜI GIÀU – CHƯƠNG 01 –
NGƯỜI NGHÈO LÀ ĐẦU VÀO CỦA NGƯỜI GIÀU
NGƯỜI NGHÈO NUÔI NGƯỜI GIÀU
CHƯƠNG 01
NGƯỜI NGHÈO LÀ ĐẦU VÀO CỦA NGƯỜI GIÀU
Bài học đầu tiên mà Người Đỡ Đầu dạy cho tôi đó là
NGƯỜI NGHÈO LÀ ĐẦU VÀO CỦA NGƯỜI GIÀU. Một
hôm, tại văn phòng làm việc của Người Đỡ Đầu, vì người
muốn dạy cho tôi bài học đầu tiên, nên người cho phép
tôi ngồi quan sát người phỏng vấn các ứng cử viên mới.
Người Đỡ Đầu phỏng vấn rất nhanh, dường như ông chỉ
xem sơ qua hồ sơ, hỏi một vài câu là có thể biết được.
Cuối buổi phỏng vấn, tôi hỏi: “Sao con thấy sư phụ phỏng
vấn rất nhanh, như vậy có chắc là sư phụ đã tìm được
nhân viên phù hợp không?”
Người Đỡ Đầu trả lời: “Thật ra ta nhìn sơ qua hồ sơ, quan
sát ánh mắt, tướng đi, thái độ, nghe qua giọng nói, cách
4. trả lời, ứng xử là có thể phán đoán được rồi.” Người Đỡ
Đầu nói có vẻ rất chuyên nghiệp.
Tôi nghi ngờ hỏi: “Nhưng cũng có khi sư phụ lầm chứ ạ?”
“Tất nhiên rồi. Cũng có khi ta lầm. Khi đó ta đã chọn một
nhân viên chưa phù hợp. Thế thì ta sẽ chấm dứt sai lầm
của mình thôi.” Người Đỡ Đầu nói có vẻ phủ phàng,
nhưng đó là sự thật.
Tôi phần nào cũng hiểu được việc làm của người. Thật ra
người giàu cũng có khi phạm sai lầm, nhưng sai lầm của
người giàu thường không nghiêm trọng. Nếu Người Đỡ
Đầu chọn nhân viên không phù hợp, người sẽ không kí
hợp đồng lao động chính thức. Và người chịu thiệt trong
sự sai lầm của người giàu lại chính là người nghèo.
5. Người Đỡ Đầu uống một ngụm trà rồi nói: “Nguyễn Học
Viên này, hôm nay ta gọi con đến đây là muốn con nhận
ra một chân lý. Tuy nó là một chân lý nhưng rất nhiều
người nhìn nhận sai lầm. Con hãy suy nghĩ thử xem thật
ra ông chủ nuôi nhân viên hay nhân viên nuôi ông chủ?”
Tôi có vẻ nghi ngờ và hỏi: “Chẳng lẽ ý của sư phụ là nhân
viên nuôi ông chủ sao?”
Người Đỡ Đầu cười và nói: “Hơi phũ phàng, nhưng đó là
sự thật con ạ.”
Rồi người phân tích thêm: “Nhân viên bán sức lao động
của mình cho ông chủ 22 ngày một tháng. Trong ba ngày
đầu làm việc, nhân viên đã tạo ra một giá trị đủ để trả
thù lao cho chính mình rồi. Còn 19 ngày còn lại thì…” Nói
tới đây, Người Đỡ Đầu ngừng một lát: “… con suy nghĩ
thử xem.”
6. Tôi suy nghĩ một lúc rồi trả lời: “Dạ, 19 ngày còn lại, nhân
viên sẽ tạo ra giá trị để nuôi ông chủ ạ.”
Người Đỡ Đầu hỏi tiếp: “Còn nuôi ai nữa?”
Tôi nói: “… thì nuôi vợ ông chủ”
Người Đỡ Đầu hỏi tiếp: “Còn nuôi ai nữa?”
Tôi như chợt hiểu ra ý đồ của người và nói: “Con hiểu rồi,
19 ngày còn lại, nhân viên sẽ tạo ra giá trị để nuôi ông
chủ, nuôi vợ của ông chủ, nuôi con ông chủ, đống học phí
cho con ông chủ, giúp ông chủ đóng thuế, mua nhà, mua
xe, thuê người giúp việc…”
Người Đỡ Đầu nói như nữa đùa nữa thật: “Thậm chí, có
khi rất phủ phàng con ạ. Trong một số tình huống, họ còn
nuôi cả vợ bé của ông chủ nữa đấy.”
Tôi có cảm giác quá phủ phàng nên nói: “Như vậy thật
tàn nhẫn.”
7. Người Đỡ Đầu hỏi lại: “Sao con nghĩ là tàn nhẫn? Đó là
con nhìn ở một khía cạnh thôi, nhưng nếu con nhìn ở
một khía cạnh khác, con sẽ không thấy như vậy là tàn
nhẫn, mà đó là chuyện bình thường. Bởi nếu không có
ông chủ thì sao?”
Đầu óc non nớt của tôi trả lời: “Nếu không có ông chủ thì
hàng ngàn nhân viên sẽ thất nghiệp, nghèo đói, gia đình
túng quẩn.”
Người Đỡ Đầu hỏi: “Còn gì nữa?”
Tôi ngập ngừng trả lời: “Con cái họ không được học
hành, xã hội loạn lạc, cướp bóc…”
Người Đỡ Đầu nói: “Còn gì nữa?”
Tôi như ngộ ra được vấn đề: “Con hiểu rồi, nếu không có
người giàu thì người nghèo cũng không tốt hơn được mà
sẽ còn tệ hơn trước. Vậy người giàu và người nghèo
nương tựa nhau.”
8. Người Đỡ Đầu nói: “Tốt lắm, vậy là con đã hiểu được bài
học thứ nhất rồi đấy. Tuy hơi phủ phàng, nhưng sự thật
là vậy. Người nghèo cung cấp yếu tố đầu vào cho người
giàu – đó là hàng hóa sức lao động.”
Tôi hỏi: “Vậy người nghèo có phải đầu ra của người giàu
không?”
Người Đỡ Đầu trả lời: “Trong chương 02, ta sẽ trả lời câu
hỏi này của con”
Mời các bạn xem tiếp Chương 02 – NGƯỜI NGHÈO CÓ
PHẢI LÀ ĐẦU RA CỦA NGƯỜI GIÀU?
9. NGƯỜI NGHÈO NUÔI NGƯỜI GIÀU – CHƯƠNG 02 –
NGƯỜI NGHÈO CÓ PHẢI LÀ ĐẦU RA CỦA NGƯỜI GIÀU?
NGƯỜI NGHÈO NUÔI NGƯỜI GIÀU
CHƯƠNG 02
NGƯỜI NGHÈO CÓ PHẢI LÀ ĐẦU RA CỦA NGƯỜI GIÀU?
Trong một cuộc họp giữa các người giàu, Người Đỡ Đầu
có dẫn tôi theo để dạy tôi bài học thứ hai. Tham gia cuộc
họp có các đại gia lớn, họ là những doanh nhân thành đạt
bậc nhất, nhưng đa số họ ăn mặc rất giản dị. Một người
mặc một chiếc áo sơ mi trắng, bỏ vào quần, đi đứng
khoan thai, từ tốn, ông tên là Khu Công Nghiệp. Một
doanh nhân khác, cũng giản đi, vừa người, nhìn qua tôi
biết đó là người sống lành mạnh, có tập thể thao đều đặn
và không ăn nhậu, đôi mắt rất tinh và có cái thần của một
người thành đạt, ông tên là Trần Trường Học. Hai người
họ bước vào và chọn một vị trí phù hợp.
Tuy bàn họp hình chữ nhật, nhưng cách xếp đặt ghế
không có vẻ gì là phân biệt người cao người thấp. Dương
như mọi người trong cuộc họp là ngang nhau, hoặc ít
nhất họ cũng không muốn có sự phân biệt cao thấp.
10. Người Đỡ Đầu nói: “Chào các vị, rất hân hạnh cùng tham
gia cuộc họp này. Đây là đệ tử của tôi, cậu ấy tên là
Nguyễn Học Viên, chỉ mới 15 tuổi, các vị đừng để ý đến
cậu ấy. Tôi dẫn theo chỉ để dạy cho cậu ấy 1 vài điều thôi.
Các vị đừng bận tâm.”
Chúng tôi ngồi thêm vài phút thì một nữ doanh nhân tới,
bà thật quý phái đĩnh đạc, dáng người mảnh khảnh, khí
khái phi phàm. Nhưng bề ngoài, cũng không lòe loẹt,
trong bà cũng giản dị như những người khác. Dường như
tất cả những người giàu thật sự họ cố gắng che giấu đi sự
giàu có của mình, để người nghèo khỏi lóe mắt. Bà chào
tất cả mọi người và tự giới thiệu: “Chào các vị, tôi tên là
Lê Siêu Thị.”
Mọi người an vị xong, Khu Công Nghiệp nói: “Tháng tới,
tôi sẽ khởi công xây dựng một khu công nghiệp tại
Babylon. Chừng đấy, tôi sẽ thuê nhiều người nghèo làm
việc cho tôi, tạo ra giá trị cho tôi.”
11. Tôi ngồi nghe và dường như đang ôn lại bài học thứ nhất
mà Người Đỡ Đầu đã dạy cho tôi: “Người nghèo cung cấp
yếu tố đầu vào cho người giàu – đó là hàng hóa sức lao
động.”
Doanh nhân Trần Trường Học nói: “Nếu vậy thì tôi sẽ xây
dựng một cụm trường học kế bên khu công nghiệp của
ông. Người nghèo sẽ vào học, họ đóng tiền cho tôi,
chúng tôi sẽ dạy họ từ mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ
sở, trung học phổ thông, rồi sẽ dạy cho họ bậc đại học.
Chúng tôi sẽ thu học phí của họ ròng rã trong 18 năm.
Sau đó chúng tôi sẽ in cho họ một tờ giấy chứng nhận đã
học, gọi là Bằng Tốt Nghiệp Đại Học. Xem như là bù lại
tiền học phí mà họ đã đóng cho chúng tôi. Thật là một
mối làm ăn lý tưởng.”
Tôi lờ mờ cảm thấy hình như người giàu họ đang tính
toán những thứ rất to tát. Có lẽ sau cuộc họp, tôi sẽ nhờ
Người Đỡ Đầu giải thích thêm.
12. Người Đỡ Đầu nói: “Hai vị thật phối hợp rất ăn ý. Anh
Trần Trường Học thì thu học phí của người nghèo, xong
cấp cho họ một mãnh bằng, để họ vào làm việc cho anh
Khu Công Nghiệp. Như vậy người nghèo vừa là thị trường
tiêu thụ của Trường Học (tức tiêu thụ sản phẩm của
Trường Học và trả tiền cho Trường Học) lại vừa là thị
trường cung cấp yếu tố đầu vào cho Khu Công Nghiệp
(tức cung cấp hàng hóa sức lao động cho Khu Công
Nghiệp và được nhận cái gọi là tiền lương). Quả hai vị
đây phối hợp rất hoàn chỉnh.
Bà Lê Siêu Thị ngồi nghe nãy giờ, cũng bổ sung thêm:
“Được, tôi sẽ xây dựng một siêu thị cạnh đó. Người
nghèo sau khi đi học ở chỗ anh Trần Trường Học, nuôi
anh Trường Học, sẽ đến làm việc chỗ anh Khu Công
Nghiệp, nuôi anh Khu Công Nghiệp và nhận lương từ anh
Khu Công Nghiệp. Kế đến họ sẽ tìm tới siêu thị của tôi.
Họ bắt đầu tiêu xài những đồng tiền lương ít ỏi của mình.
Họ mua sắm những sản phẩm do chính họ làm ra. Đấy là
những sản phẩm từ anh Khu Công Nghiệp chuyển sang
cho tôi. Tôi không cần sản xuất gì cả, tôi chỉ cần lấy hàng
từ anh Khu Công Nghiệp qua bán lấy lời là được.”
13. Người Đỡ Đầu nói: “Chúng ta phải biết ơn những người
nghèo, họ là thị trường béo bở của chúng ta đấy. Vừa là
thị trường cung cấp các yếu tố đầu vào, vừa là thị trường
tiêu thụ sản phẩm. Họ làm việc cho ta, tiêu thụ sản phẩm
của ta. Quả thật, người nghèo đã nuôi chúng ta.”
Tôi ngồi nghe và suy nghĩ cuộc nói chuyện giữa những
người giàu. Thì ra người nghèo không phải đầu ra của
người giàu. Đầu ra của người giàu là sản phẩm. Người
nghèo góp phần tạo ra sản phẩm. Sau đó, chính người
nghèo sẽ đóng vai trò là người tiêu thụ đầu ra. Quả thật,
người giàu đã tạo ra trò chơi, còn người nghèo tham gia
vào cuộc chơi.
Những người giàu đang bàn chiến lược, bàn ý tưởng thì
có tiếng gõ cửa phòng. Thì ra một người giàu nữa xuất
hiện. Đấy là một chàng thanh niên, ăn mặc rất lạ, đúng
với phong cách kinh doanh của anh ta. Anh ta nói lớn:
“Xin lỗi các bạn, tôi đến trễ. Mọi người cho tôi hợp tác
với.”
14. Khu Công Nghiệp nói: “Chào cậu Lý Giải Trí, trông cậu
phong độ thế. Cuộc chơi này không có cậu thì mất hẳn
tính hoàn hảo của nó.”
Hóa ra đó là Lý Giải Trí, anh lúc nào cũng phong trần lãng
tử. Việc kinh doanh đối với anh chỉ như một trò tiêu
khiển. Anh nói với bà Lê Siêu Thị: “Tôi sẽ xây dựng một
khu giải trí kết hợp với siêu thị của chị. Chị bán bên dưới,
còn tôi giải trí bên trên. Ai muốn lên vui chơi, xem phim,
chơi điện tử thì phải đi ngang qua siêu thị của chị. Họ
trông thấy hàng hóa, thế nào cũng nảy sinh ý định. Tầng
trên cùng là quầy giải khát. Muốn uống nước phải đi
ngang qua tầng trò chơi điện tử, xem phim 3D. Chắc chắn
họ sẽ không cưỡng lại được. Chúng ta phải tìm mọi cách
moi tiền của người nghèo.”
Cuộc trò chuyện của họ thật gai cấn. Tôi chỉ biết ngồi
nghe, tôi đã nghe thấy những điều mà bố mẹ tôi chưa
bao giờ dạy cho tôi. Bởi bố mẹ tôi cũng là những người
nghèo, họ sẽ không bao giờ biết được những điều này.
Và ngày hôm nay đây, khi tôi viết cuốn sách này, nhưng
15. tôi biết rằng, người nghèo họ cũng sẽ không bao giờ chịu
đọc.
Trần Trường Học có vẻ quá hứng thú với ý tưởng chiến
lược của Lý Giải Trí và Lê Siêu Thị, anh khen: “Các vị thật
đáo để, các vị bên tung bên hứng như vậy, người nghèo
chỉ có nước mua sắm, tiêu pha cho đến cháy túi mới
thôi.”
Trần Trường Học vừa dứt lời thì có một vị hảo bằng hữu
bước vào. Ông ta vừa đi vừa cười lớn. Đúng là phong thái
của đại phú quý. Giọng cười của ông ta khanh khách, lớn
đến mức tất cả chúng tôi phải ngoái cổ lại nhìn. Thì ra đó
là ông trùm tài chính Thái Ngân Hàng. Ông vừa đi vừa
nói: “Anh Trần Trường Học nói vậy là xem thường tôi rồi.
Nếu chỉ để cho người nghèo mua sắm đến hết tiền thôi
thì tôi chưa hài lòng đâu. Phải làm sau cho họ mua nhiều
hơn nữa, mua vượt quá khả năng của họ. Phải cho họ
mua đến nợ ngập đầu. Để họ trả lãi suất cho tôi, chừng
đó, tôi ngồi không hưởng lãi. Có phải sướng không?”
16. Có vẻ như ông Thái Ngân Hàng cảm thấy mình hơi quá,
nên nhìn qua anh Khu Công Nghiệp lắp liếm: “Mà khi họ
nợ đầy đầu, thì họ sẽ không dám nghỉ việc. Họ phải hì hụi
làm việc cho anh Khu Công Nghiệp, điều này chắc anh
Khu Công Nghiệp đồng tình đây.”
Khu Công Nghiệp trong bụng hài lòng lắm, nhưng cũng
không dám gật đầu. Ông ta bèn đưa mắt nhìn Thái Ngân
Hàng, và hất hàm về phía bà Lê Siêu Thị và anh Lý Giải Trí.
Ông Thái Ngân Hàng hiểu ý bèn quay sang bà Lê và anh
Lý giải thích: “Thật ra tôi hỗ trợ tín dụng cho người nghèo
cũng là muốn kích cầu. Người nghèo họ có tiền, họ cũng
đi mua sắm ở siêu thị hoặc đi giải trí thôi mà. Vả lại kích
cầu cũng là ý muốn của chính phủ đấy thôi.”
Anh Lý Giải Trí đắc ý lắm, cũng nói vài câu để ông Thái đỡ
ngượng: “Thật ra ông Thái Ngân Hàng đây là một người
tốt. Hỗ trợ tín dụng cho người nghèo cũng chỉ là để
người nghèo có thể tiêu dùng vượt ngoài thu nhập khả
dụng mà thôi. Như vậy có nghĩa là ông đang giúp người
nghèo đấy chứ. Ông đúng là đại nhân đại nghĩa mà.”
17. Bà Lê Siêu Thị nói: “Phải phải, anh Thái Ngân Hàng cứ
phát hành thẻ tín dụng miễn phí đi, phí phát hành thẻ tôi
sẽ tài trợ cho. Dù sao thì có thẻ tín dụng rồi, họ cũng sẽ
đến siêu thị của tôi để mua sắm mà. Cho nên tôi tài trợ
phí phát hành thẻ cũng đâu có gì là lạ.”
Mọi người đang rôm rả bàn bạc thì một doanh nhân
đáng kính khác xuất hiện. Ông mặc chiếc áo blouse trắng.
Tướng đi khoan thai, tiên phong đạo cốt, vẻ mặt hiền từ,
phúc như đông hải. Ông cười và nói: “Tôi là Lâm Chấn
Thương, tôi sẽ xây dựng một bệnh viện kế bên. Trước
sau gì thì các người cũng phải tìm tôi, dù là người giàu
hay người nghèo gì thì cũng là thị trường tiêu thụ sản
phẩm của tôi mà thôi.”
Vậy là những người giàu chốt lại ngày giờ để đồng loạt
khởi công xây dựng khu công nghiệp, siêu thị, khu giải trí,
trường học, bệnh viện, ngân hàng…
18. Thế rồi nhiều doanh nhân khác cũng biết tin tức của cuộc
họp. Họ kéo đến Babylon để kinh doanh. Tất cả họ đều
có một mục tiêu chung là cung cấp sản phẩm dịch vụ cho
mọi người, mang lại giá trị cho mọi người, nhưng chủ yếu
là phục vụ người nghèo, bởi 90% dân số trên đảo
Babylon này đều là người nghèo. Họ kinh doanh các loại
hình như: bảo hiểm, bưu điện, thông tin liên lạc … thậm
chí có người còn làm diễn giả nữa chứ.
Vậy là vùng đất Babylon nghèo khổ quê tôi, bỗng chốc
trở nên nhộn nhịp hẳn lên. Đúng là người giàu, họ tạo ra
trò chơi. Họ điều khiển thế giới này.
Tôi hỏi Người Đỡ Đầu: “Thưa sư phụ, con nghe người
giàu nói, 90% dân số trên đào Babylon là người nghèo,
như vậy nghĩa là sao ạ?”
Người Đỡ Đầu trả lời: “Nghèo ở đây con phải hiểu là
nghèo tương đối. Bất kỳ quốc gia nào, bất kỳ lãnh thổ
nào cũng có 10% dân số chiếm giữ 90% của cải, họ là
những người giàu. 90% dân số còn lại chia nhau 10% của
19. cải còn lại, họ là những người nghèo. Con số 90 – 10 này
cũng có thể sai lệch thành 80 – 20 hoặc 95 – 5. Tuy nhiên
con số cụ thể không quan trọng, quan trọng là con hiểu
được ý nghĩa của nó.”
Người Đỡ Đầu hỏi lại tôi: “Trước khi ta kết thúc bài học
thứ 2 này, sư phụ muốn hỏi lại con một lần nữa. Thế con
đã tự trả lời được câu hỏi của con chưa?”
Tôi trả lời: “Thưa sư phụ, con đã tự trả lời được rồi ạ.
Người nghèo cung cấp yếu tố đầu vào cho người giàu –
đó là hàng hóa sức lao động. Từ đó, người nghèo sản
xuất ra sản phẩm (đầu ra) hoặc cung cấp dịch vụ (đầu ra).
Như vậy, người nghèo không phải đầu ra của người giàu.
Mà người nghèo chính là thị trường tiêu thụ sản phẩm
đầu ra cho người giàu. Nói tóm lại, người nghèo nuôi
người giàu.”
Người Đỡ Đầu tỏ ra rất hài lòng về câu trả lời của tôi. Ông
nói: “Robert T Kiyosaki trong Dạy Con Làm Giàu có nói:
Người nghèo nuôi ông chủ, người nghèo nuôi ngân hàng,
20. người nghèo nuôi chính quyền. Con hãy suy nghĩ, và
chúng ta sẽ làm rõ trong chương số 03 nhé.”
Mời các bạn xem tiếp Chương 03 – NGƯỜI NGHÈO NUÔI
NGÂN HÀNG
21. NGƯỜI NGHÈO NUÔI NGƯỜI GIÀU – CHƯƠNG 03 –
NGƯỜI NGHÈO NUÔI NGÂN HÀNG
NGƯỜI NGHÈO NUÔI NGƯỜI GIÀU
CHƯƠNG 03
NGƯỜI NGHÈO NUÔI NGÂN HÀNG
Nhớ lại câu hỏi của Người Đỡ Đầu trong chương 02, tôi
hỏi: “Thưa sư phụ, con suy nghĩ mãi mà vẫn chưa hiểu tại
sao sư phụ lại nói Người Nghèo Nuôi Ngân Hàng. Nhờ sư
phụ giải thích dùm ạ.”
Người Đỡ Đầu nói: “Con không hiểu chỗ nào?”
Tôi trả lời: “Thưa sư phụ, theo ý con, nếu như người
nghèo đi làm, tiết kiệm và gởi tiền vào ngân hàng. Mỗi
tháng ngân hàng phải trả tiền lãi cho người gởi tiền, như
thế thì phải gọi là ngân hàng nuôi người gởi tiền chứ ạ.”
22. Người Đỡ Đầu nói: “Sở dĩ nói người nghèo nuôi ngân
hàng là vì hai lí do. Lí do thứ nhất hơi khó hiểu một chút,
nhưng ta sẽ phân tích cẩn thận cho con hiểu. Nếu con
không hiểu được thì bỏ qua cũng không sao. Nhưng lí do
thứ hai thì bắt buộc con phải nắm cho rõ. Điều này rất
quan trọng đến cách ứng xử của con trong quá trình xây
dựng Con Thuyền Tài Chính của con đấy.”
LÍ DO THỨ NHẤT – KẾT LUẬN NGƯỜI NGHÈO NUÔI NGÂN
HÀNG (Chỉ dành cho người có kiến thức rộng – Nếu bạn
cảm thấy khó hiểu cứ đọc tiếp lý do thứ hai nhé!)
Người Đỡ Đầu hỏi: “Trước khi phân tích lí do thứ nhất để
kết luận người nghèo nuôi ngân hàng, thì con phải hiểu
thế nào là lãi suất danh nghĩa, lãi suất thực và lạm phát.”
Tuy tôi chỉ mới 15 tuổi, nhưng Người Đỡ Đầu bắt tôi phải
nghiên cứu về Kinh Tế Học. Ông nói: “Kinh Tế Học là nền
tảng kiến thức quan trọng. Nếu con biết những kiến thức
này, thì con sẽ dễ dàng nhìn thấy bản chất của vấn đề
hơn. Thật ra không biết cũng không sao, nhưng nếu con
23. có hiểu biết về Kinh Tế Học, con sẽ tiếp thu kiến thức ta
dạy nhanh chóng hơn một người bình thường.”
Thế nên tôi đã nghiên cứu hai quyển sách Kinh Tế Học
kinh điển đó là Kinh Tế Vi Mô của Robert S. Pindyck –
Daniel L. Rubinfeld và Kinh Tế Vĩ Mô của N. Gregory
Mankiw. Vì thế các khái niệm lãi suất danh nghĩa, lãi suất
thực và lạm phát đối với tôi không có gì là khó hiểu. Tôi
nói: “Lãi suất danh nghĩa là lãi suất mà ngân hàng sẽ giao
dịch với con nếu con cho ngân hàng vay. Lãi suất thực là
lãi suất mà con nhận được sau khi đã loại bỏ lạm phát.
Lãi suất thực đặc trưng cho sự gia tăng của sức mua
trong tương lai của một số tiền ở hiện tại. Còn lạm phát
đặc trưng cho sự gia tăng của mức giá. Nếu mức giá tăng
càng nhanh, thì có nghĩa là lạm phát đang rất cao.”
Người Đỡ Đầu nói: “Ta rất mừng là con đã hiểu đúng. Vậy
ta hỏi con. Nếu con gởi tiền vào ngân hàng, ngân hàng
trả con lãi suất danh nghĩa là bao nhiêu?”
Tôi trả lời: “Dạ khoảng 8%/năm ạ.”
24. Người Đỡ Đầu hỏi tiếp: “Vậy con nghĩ lạm phát hiện nay
ở đảo Babylon này là bao nhiêu?”
Tôi nghi ngờ hỏi lại: “Tại sao lại là con nghĩ ạ? Không phải
con số này do chính phủ Babylon công bố sao?”
Người Đỡ Đầu có vẻ không hài lòng, ông nói: “Ta đã bảo
con học Kinh Tế Học cho nghiêm túc, thế mà con còn hỏi
ta câu này.”
Tôi phân bua: “Dạ con có học nghiêm túc ạ. Nhưng có thể
vấn đề này hơi khó nên con chưa rõ lắm ạ.”
Người Đỡ Đầu uống một ngụm trà, xong ông hỏi: “Con
tính lạm phát bằng cách nào?”
Tôi đáp: “Dạ lấy chỉ số giá tiêu dùng năm nay trừ chỉ số
giá tiêu dùng năm trước, tất cả chia cho chỉ số giá tiêu
dùng năm trước ạ.”
25. Người Đỡ Đầu nói: “Rất tốt. Thế chỉ số giá tính bằng cách
nào?”
Tôi trả lời: “Chỉ số giá tính bằng cách lấy giá trị của rổ
hàng hóa tiêu dùng tính bằng tiền năm hiện hành chia
cho giá trị của rổ hàng hóa tiêu dùng tính bằng tiền năm
gốc.”
Người Đỡ Đầu có vẻ đắc ý lắm, người nói: “Rất tốt, thế rổ
hàng hóa tính bằng cách nào?”
Tôi trả lời: “Rổ hàng hóa thường do tổng cục thống kê
Babylon xác định vào năm gốc.”
Người Đỡ Đầu cười đắc chí và nói: “Vấn đề nằm ở chỗ
đó.”
26. Nghe Người Đỡ Đầu dẫn dắt tới đây, tôi chợt hiểu ra vấn
đề. Tôi nói: “Về nguyên tắc, tổng cục thống kê Babylon
xác định rổ hàng hóa tiêu dùng vào năm gốc. Tuy nhiên,
rổ này có thể thay đổi tùy theo tình hình tiêu dùng của
dân chúng Babylon. Thậm chí tổng cục có thể vô tình hay
cố tình thay đổi rổ hàng hóa theo ý muốn chủ quan.
Chẳng hạn đưa vào những hàng tiêu dùng ít tăng giá và
gán cho nó trọng số cao. Như thế thì lạm phát sẽ thấp
thôi.”
Người Đỡ Đầu rất hài lòng về câu trả lời của tôi, ông nói:
“Nếu chính phủ Babylon minh bạch, thì họ sẽ hạn chế
sửa số liệu thống kê. Còn nếu họ không minh bạch, chẳng
những họ sửa số liệu, mà thậm chí, có thể họ còn chả cần
thống kê. Chỉ cần báo cáo con số họ muốn là được rồi.”
Tôi gật đầu đồng tình và hỏi: “Vậy chỉ số minh bạch và chỉ
số tham nhũng của Babylon là bao nhiêu ạ?”
Người Đỡ Đầu nói: “Chỉ số minh bạch của Babylon là 31
trên 100. Còn chỉ số tham nhũng của Babylon là 117 trên
27. 177. Vậy đấy, con còn tin vào sự báo cáo của tổng cục
thống kê Babylon nữa không?”
Tôi ngán ngẫm trả lời: “Thảo nào sư phụ bảo con cảm
nhận lạm phát là bao nhiêu, chứ không hỏi con tổng cục
báo cáo lạm phát là bao nhiêu.”
Người Đỡ Đầu nói: “Ngay cả chính phủ Mỹ báo cáo còn
chưa thể tin được, huống chi là Babylon.”
Tôi ngạc nhiên hỏi: “Chính phủ Mỹ minh bạch như vậy
mà còn báo cáo sai sao thưa sư phụ?”
Người Đỡ Đầu hỏi: “Quyển Kinh Tế Học Vĩ Mô của
Mankiw là viết cho nước nào?”
Tôi trả lời: “Cho Mỹ ạ.”
28. Người Đỡ Đầu cười và bảo: “Con hãy lật ra trang 461,
bản dịch của Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân, NXB
Thống Kê ấn hành năm 1996. Dòng 25 có đoạn: Mỗi khi
nhìn thấy một chỉ số kinh tế được báo cáo trên các
phương tiện truyền thông đại chúng. Con phải hiểu rõ là
nó được tính như thế nào? Và những thông tin gì đã bị
vô tình hoặc cố tình bỏ qua. Ở Mỹ còn như thế đấy con
ạ.”
Tôi nói: “Dạ con hiểu rồi, từ nay con sẽ nghi ngờ bất cứ
chỉ số kinh tế nào do tổng cục thống kê Babylon công bố.
Con sẽ chỉ tin vào cảm giác của con mà thôi.”
Người Đỡ Đầu nói tiếp: “Trở lại vấn đề chính, con cảm
giác lạm phát là bao nhiêu?”
Tôi nói: “Dạ năm rồi con ăn 1 dĩa cơm 20 đơn vị tiền
Babylon, năm nay, một dĩa cơm tương tự như vậy trị giá
25 đơn vị tiền Babylon. Con nghĩ lạm phát vào khoảng
25%/năm.”
29. Người Đỡ Đầu nói: “Có những thứ tăng giá ít, có những
thứ tăng giá nhiều, tính trung bình cho khoảng 20%. Tức
lạm phát 20%. Điều này có nghĩa là con sẽ hưởng lãi suất
thực bao nhiêu?”
Tôi trả lời: “Dạ lãi suất thực bằng lãi suất danh nghĩa (8%)
trừ cho lạm phát (20%), như vậy có nghĩa là lãi suất thực
âm 12%. Thật đáng sợ.”
Người Đỡ Đầu cười và nói: “Vậy nếu con gởi tiền vào
ngân hàng, con đang bị lỗ bao nhiêu?”
Tôi trả lời: “Dạ 12% ạ.”
Suy nghĩ một lúc, tôi hỏi: “Vậy chẳng lẽ sư phụ bảo con
để tiền ở nhà, không gởi ngân hàng sao?”
30. Người Đỡ Đầu phá lên cười tan nát: “Nếu con để tiền ở
nhà thì càng bị thiệt hại của lạm phát. Con để tiền ở nhà
thì bị thiệt hại 20%, còn nếu gởi vào ngân hàng thì bị
thiệt 12%. Như vậy, biện pháp gởi tiền vào ngân hàng chỉ
là hình thức giảm thiểu thiệt hại mà thôi.”
Tôi băn khoăn quá nên hỏi lại: “Nếu vậy thì bất cứ ai gởi
tiền vào ngân hàng đều bị thiệt hại, không gởi thì càng
thiệt hại hơn. Điều này có nghĩa là người giàu hay người
nghèo đều thiệt hại chứ có riêng gì người nghèo đâu?
Thậm chí người giàu, họ có tiền nhiều, họ gởi ngân hàng
còn thiệt hại nhiều hơn. Sư phụ nói người nghèo nuôi
ngân hàng. Vậy chẳng lẽ người giàu không gởi tiền vào
ngân hàng sao?”
Người Đỡ Đầu mỉm cười trước sự ngây thơ của tôi, người
nói: “Người giàu không gởi nhiều tiền vào ngân hàng đâu
con. Người giàu họ chỉ gởi vừa đủ để thực hiện chức
năng thanh toán hiện tại mà thôi. Con hãy nhớ lại tiền có
mấy chức năng?”
31. Tôi đã học rất kỹ môn Kinh Tế Học nên trả lời ngay:
“Thưa sư phụ, tiền có ba chức năng chính. Thứ nhất là
chức năng trung gian trao đổi, còn gọi là chức năng thanh
toán trong hiện tại. Chức năng thứ hai là dự trữ giá trị,
còn gọi là chức năng thanh toán trong tương lai. Tuy
nhiên chức năng dự trữ giá trị này rất kém. Tiền không
dự trữ giá trị tốt bằng các tài sản khác. Chức năng thứ ba
là chức năng làm đơn vị hạch toán (hay tính toán). Tuy
nhiên tiền là đơn vị hạch toán co giãn.”
Người Đỡ Đầu rất hài lòng câu trả lời của tôi: “Ta muốn
nhấn mạnh chức năng thứ hai. Tiền có thể dự trữ giá trị
để thực hiện chức năng thanh toán trong tương lai, tuy
nhiên rất kém. Tiền không dự trữ giá trị tốt bằng các tài
sản khác như vàng, bất động sản. Bởi thế, người giàu chỉ
bỏ tiền vào ngân hàng nhằm mục tiêu thanh toán hiện
tại, hoặc cùng lắm là trong một tương lai gần. Còn về lâu
dài, họ sẽ sở hữu tài sản.”
Tôi nói tiếp: “Chính vì thế mà người giàu cũng có nuôi
ngân hàng, nhưng không nuôi nhiều bằng người nghèo.
32. Bởi người giàu biết phân biệt rõ các khái niệm về tiền,
chức năng của tiền, các khái niệm về tài sản, tiêu sản,
dòng thu nhập và chi phí. Trong khi đó, ngược lại, người
nghèo vừa nghèo lại vừa không chịu học hỏi, họ không
biết kênh đầu tư nào khác ngoài việc đem tiền tiết kiệm
gởi vào ngân hàng, để rồi đồng tiền mồ hôi nước mắt của
họ bị xói mòn bởi lạm phát.”
Người Đỡ Đầu vui vẻ nói: “Xem ra con đã ngộ được lý do
thứ nhất kết luận người nghèo nuôi ngân hàng rồi đấy.
Tuy nhiên còn một điểm nữa ta phải nói thêm. Trong
chương 01, ta đã đề cập, người nghèo cung cấp yếu tố
đầu vào cho người giàu. Yếu tố đầu vào ở đây con hiểu,
thứ nhất là hàng hóa sức lao động, thứ hai là cung cấp
tiền để người giàu mượn vốn kinh doanh.”
Tôi hỏi lại: “Sao lại là mượn ạ? Là vay mới đúng chứ ạ?”
Người Đỡ Đầu cười và nói: “Người ta sử dụng tiền của
con, rồi trả lãi cho con còn tệ hơn lạm phát. Ta dùng từ
33. mượn là nhân đạo rồi đấy. Lẽ ra ta dùng từ chiếm dụng
thì đúng hơn. Thôi, bây giờ ta chuyển sang lý do thứ hai.”
LÍ DO THỨ HAI – KẾT LUẬN NGƯỜI NGHÈO NUÔI NGÂN
HÀNG
Người Đỡ Đầu phân tích: “Người giàu biết phân biệt rõ
cái gì là tài sản, cái gì là tiêu sản, và làm sao để sở hữu
chúng. Người giàu biết cách sử dụng tiền của họ một
cách khôn ngoan nhất. Vì thế, chả bao giờ họ mua tiêu
sản mà không có một tài sản khác tài trợ cho tiêu sản.
Trong khi người nghèo thì ngược lại. Họ không phân biệt
được tài sản và tiêu sản. Họ thường nhầm lẫn tiêu sản là
tài sản. Vì thế, họ có rất nhiều quyết định sai lầm.”
Tôi nói thêm: “Có phải ý của sư phụ là người nghèo
thường tưởng lầm ngôi nhà là tài sản, vì thế họ vay tiền
ngân hàng để mua, sau đó hàng tháng phải trả lãi cho
ngân hàng. Điều này thể hiện người nghèo nuôi ngân
hàng?”
34. Người Đỡ Đầu rất đồng tình: “Phải đấy, người nghèo
thường không chịu học hỏi. Cho dù con có cố gắng dạy
cho họ, họ cũng không học, họ không tin vào khả năng
của chính họ, họ nghĩ họ không bao giờ làm được, họ
không tin vào chuyên gia, nên họ nghĩ những lời nói của
con là lừa bịp họ, họ cố chấp bảo thủ, họ nghĩ họ đã hành
động đúng rồi và không cần phải học hỏi cũng như thay
đổi. Và vì thế họ vẫn cứ nghèo.”
Tôi nói: “Thế người nghèo tin rằng ngôi nhà là tài sản, và
cho dù con cố gắng giải thích với họ ngôi nhà của họ là
tiêu sản, họ cũng không chấp nhận sao?”
Người Đỡ Đầu gật đầu: “Phải, bởi vì ngôi nhà đứng tên
họ, nên họ nghĩ đó là tài sản của họ. Nhưng thực chất,
ngôi nhà chính là tài sản của ngân hàng. Ngôi nhà hàng
tháng đem tiền ra khỏi túi người nghèo, nên ngôi nhà là
tiêu sản của người nghèo. Đồng thời nó đem tiền vào túi
ngân hàng, nên nó là tài sản của ngân hàng.”
35. Người Đỡ Đầu trầm ngâm một lúc, rồi ông nói với giọng
chua chát: “Ngày xưa, lúc ta còn là một thanh niên, ta
cũng hay cố gắng giải thích điều này cho rất nhiều người
nghèo hiểu, để họ thoát được cảnh nghèo của họ, vì ta
thấy họ rất đáng thương. Nhưng chẳng có ai nghe ta cả.”
Rồi ông thở dài: “Thậm chí có đôi lúc ta tự nghĩ. Đừng
bao giờ cố gắng dạy cho con heo hát. Chẳng những mất
thời gian của con mà còn làm phiền những chú heo
khác.”
Tôi nói: “Chẳng phải sư phụ đang cố gắng dạy cho con đó
sao?”
Ông cười và bảo: “Bởi vì con không phải con heo.”
Tôi hỏi thêm: “Sư phụ nói người nghèo vay tiền mua nhà
là một quyết định sai lầm, thế người nghèo còn vay tiền
để mua nhiều thứ khác nữa như: mua xe, mua nội thất,
36. xài thẻ tín dụng… tất cả những quyết định đó đều sai lầm
sao?”
Người Đỡ Đầu nói: “Phải, tất cả những quyết định đó đều
có đặc điểm chung là vay tiền mua tiêu sản, nên đó là
quyết định sai lầm.”
Tôi hỏi: “Thế chẳng lẻ người giàu không bao giờ vay ngân
hàng?”
Người Đỡ Đầu giải thích: “Ta chỉ nói vay tiền mua tiêu sản
là quyết định sai lầm. Chứ ta có nói vay tiền là sai lầm
đâu.”
Tôi phần nào hiểu được, nhưng vẫn sợ mình có chỗ nào
hiểu sai nên muốn hỏi lại cho chắc: “Vậy có phải người
giàu cũng vay tiền, nhưng họ vay để mua tài sản?”
37. Người Đỡ Đầu gật đầu nói: “Đúng vậy. Người giàu đôi lúc
cũng vay tiền. Nhưng họ vay không phải để mua tiêu sản
như người nghèo. Họ vay để mua tài sản. Tài sản sẽ đem
về cho họ một khoảng thu nhập có suất thu lợi cao hơn
lãi suất vay. Vậy là dòng tiền của họ dương.”
Tôi đã ngộ ra vấn đề nên hớn hở nói: “Và lúc đó khoảng
nợ của người giàu được gọi là nợ tốt.”
Người Đỡ Đầu bảo: “Chính xác. Việc làm này của người
giàu gọi là biết tận dụng Đòn Bẩy Tài Chính.”
Tôi nói thêm: “Cũng có thể nói là biết dùng tiền của
người khác để làm giàu cho chính mình.”
Người Đỡ Đầu nói: “Rất tốt, bài học thứ 03 này con tiếp
thu rất tốt. Con hãy về nghiền ngẫm lại. Tuần sau, ta sẽ
dạy con bài học thứ tư: Người Nghèo Nuôi Chính Quyền.”
Mời các bạn xem tiếp Chương 04 – NGƯỜI NGHÈO NUÔI
CHÍNH QUYỂN
38. NGƯỜI NGHÈO NUÔI NGƯỜI GIÀU – CHƯƠNG 04 –
NGƯỜI NGHÈO NUÔI CHÍNH QUYỀN
NGƯỜI NGHÈO NUÔI NGƯỜI GIÀU
CHƯƠNG 04
NGƯỜI NGHÈO NUÔI CHÍNH QUYỀN
Hôm nay tôi đến văn phòng của Người Đỡ Đầu thật sớm.
Bởi người hứa lần này sẽ dạy tôi về chủ đề Người Nghèo
Nuôi Chính Quyền. Cả tuần qua tôi đã suy nghĩ, nguồn
thu chủ yếu của nhà nước Babylon chính là từ thuế. Mà
thuế là nghĩa vụ chung cho cả người giàu lẫn người
nghèo. Vậy thì nếu nói Người Nghèo Nuôi Chính Quyền,
phải chăng ý nói người nghèo đóng thuế nhiều hơn
người giàu? Tôi cứ băn khoăn mãi và hôm nay Người Đỡ
Đầu nhất định sẽ làm sáng tỏ cho tôi.
Vì tôi đến sớm nên tôi ngồi chờ Người Đỡ Đầu một lúc.
Lát sau ông mới tới văn phòng và chúng tôi bắt đầu nói
chuyện. Người Đỡ Đầu tranh thủ thời gian nên đi thẳng
vào vấn đề luôn: “Câu nói Người Nghèo Nuôi Chính
39. Quyền, hàm ý người nghèo đóng thuế nhiều hơn người
giàu. Nhiều ở đây phải hiểu là nhiều tương đối chứ không
phải nhiều tuyệt đối. Tức phần trăm đóng thuế của người
nghèo cao hơn. Con có hiểu không?”
Tôi vẫn chưa đồng ý nên hỏi lại: “Người giàu có thu nhập
rất cao, số tiền thuế nộp ngân sách đương nhiên cao hơn
người nghèo rồi. Sao có thể nói người nghèo đóng thuế
nhiều hơn?”
Người Đỡ Đầu kiên nhẫn giải thích lại một lần nữa:
“Nhiều ở đây con phải hiểu là nhiều tương đối, tức con
so sánh tỉ số phần trăm chứ không phải so sánh con số
tuyệt đối. Con hiểu chứ?”
Tôi suy nghĩ một lúc, cuối cùng cũng tìm được chỗ sơ hở
của Người Đỡ Đầu, tôi cãi: “Thuế thu nhập là một lại thuế
lũy tiến. Ví dụ người nghèo thu nhập 10.000USD thì đóng
thuế 25%. Người giàu thu nhập 100.000USD thì
10.000USD đầu phải đóng thuế 25%. 40.000USD tiếp
theo đóng thuế 35% và 50.000USD tiếp theo đóng thuế
40. 50%. Như vậy, cho dù là sư phụ nói so sánh con số tỉ lệ
phần trăm (tức thuế suất) thì người giàu vẫn đóng thuế
nhiều hơn.” Tôi cảm thấy vô cùng khoan khoái, vì tôi đã
tìm ra sơ hở của Người Đỡ Đầu.
Người Đỡ Đầu thấy tôi lý sự như vậy, ông cười khịt một
tiếng rồi hỏi lại: “Vậy giả sử trong một tình huống nào đó,
nếu cả người giàu và người nghèo đều có một khoảng
thu nhập bằng nhau là 10.000USD thì sao?”
Có vẻ như điều Người Đỡ Đầu sắp nói ra đây là một điều
mà tôi chưa nghĩ tới. Tôi hơi rụt rè hỏi với vẻ ngờ vực:
“Chẳng lẽ ý sư phụ là, nếu có cùng mức thu nhập, thì
người giàu sẽ đóng thuế ít hơn sao?”
Người Đỡ Đầu gật đầu và nói: “Người giàu có công ty, khi
họ chi xài, trong một chừng mực nào đó, ứng với một số
khoản chi nào đó, họ có thể kê khai vào chi phí hoạt động
kinh doanh của công ty một cách hoàn toàn hợp lý, hợp
lệ và hợp pháp. Con đã hiểu ra chưa?”
41. Vừa nghe tới đây, đầu óc tôi chợt bừng tỉnh. Tôi nói với
Người Đỡ Đầu: “Quả thật như vậy, và người giàu hoàn
toàn kê khai đúng pháp luật. Điều này làm cho lợi nhuận
công ty giảm xuống và người giàu đóng thuế ít lại. Trong
khi đó người nghèo không có công ty, họ phải đóng thuế
trước khi tiêu xài. Đóng thuế xong, phần thu nhập còn lại
gọi là thu nhập khả dụng. Họ sẽ dùng vào hai việc. Một là
tiêu xài, hai là tiết kiệm. Vì người nghèo đóng thuế trước
khi tiêu xài, nên tiền thuế sẽ nhiều hơn. Người giàu xài
trước khi đóng thuế, nên tiền thuế sẽ ít lại. Sư phụ quả
thật là cao thâm.”
Người Đỡ Đầu cười: “Chả có cao thâm gì đâu. Tất cả
người giàu trên đảo Babylon đều biết chân lý này. Đây là
sự khôn ngoan của người giàu. Phần thưởng cho sự khôn
ngoan của người giàu thì rất nhiều. Một trong những
phần thưởng đó là họ đóng thuế ít hơn người nghèo một
cách tương đối.”
42. Tôi cũng bổ sung: “Người giàu trả cho mình trước, sau đó
mới trả cho người khác, kể cả trả cho mình trước khi trả
cho chính quyền. Trong khi người nghèo trả cho chính
quyền trước, rồi sau đó mới trả cho bản thân. Haiz…”
Người Đỡ Đầu cũng thở dài và lắc đầu ngao ngán: “Chỉ
tiếc là người nghèo thì không chịu đọc sách, và sẽ chẳng
bao giờ biết được chân lý này. Thậm chí, con có tổ chức
một khóa học, họ cũng không đi học. Một là họ không có
tiền đi học. Hai là vì họ quá tiếc tiền nên không học. Và
như thế, vì tiếc con tép mà họ sẽ mất cả con tôm.”
Người Đỡ Đầu nói: “Người Nghèo Nuôi Chính Quyền là
như vậy đó. Chương sau ta sẽ phân tích cho con thêm
một lý do nữa chứng mình lãi suất thực âm và ý nghĩa
của nó.”
Mời các bạn xem tiếp Chương 05 – LÃI SUẤT THỰC ÂM
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ
43. NGƯỜI NGHÈO NUÔI NGƯỜI GIÀU – CHƯƠNG 05 – LÃI
SUẤT THỰC ÂM VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA BẠN
NGƯỜI NGHÈO NUÔI NGƯỜI GIÀU
CHƯƠNG 05
LÃI SUẤT THỰC ÂM VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA BẠN
Nhiều người không tin rằng lãi suất thực âm. Thậm chí
nhiều người còn không biết lãi suất thực là gì. Khi người
nghèo gởi tiền vào ngân hàng, họ được ngân hàng trả lãi
suất là 8% / năm. Vậy là họ hài lòng. Và khi họ được ngân
hàng trả 10% / năm, họ càng hài lòng hơn nữa. Người
giàu thì khác hẳn. Con số 8% / năm hay 10% / năm không
phải là con số mà người giàu quan tâm. Và chủ đề ngày
hôm nay Người Đỡ Đầu muốn dạy cho tôi đó là lãi suất
thực. Ông nói: “Lần trước ta đã chỉ cho con thấy lãi suất
thực âm. Thế con còn nhớ gì không?”
NỘI DUNG 01 - LÃI SUẤT THỰC ÂM DO LẠM PHÁT CAO
HƠN LÃI SUẤT DANH NGHĨA
44. Tôi trả lời: “Nhớ chứ ạ. Lãi suất thực bằng lãi suất danh
nghĩa trừ đi lạm phát. Thông thường lãi suất danh nghĩa
ở đảo Babylon vào khoảng 8% đến 10%. Trong khi đó,
lạm phát thường cao hơn con số này, dẫn đến lãi suất
thực âm.”
Người Đỡ Đầu nói: “Thế con có biết lý do vì sao có lạm
phát không?”
Tôi trả lời: “Theo những điều con học được từ quyển
Kinh Tế Vĩ Mô của tác giả Mankiw thì lạm phát có nhiều
nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân chính sau
đây. Thứ nhất là lạm phát ỳ. Thứ hai là lạm phát do cầu
kéo. Thứ ba là lạm phát do chi phí đẩy. Và thứ tư là chính
phủ Babylon in tiền để tài trợ cho thâm hụt ngân sách.”
Người Đỡ Đầu rất đồng tình và nói: “Trong chương này,
sư phụ sẽ làm rõ cho con vấn đề tại sao lãi suất thực âm.
Và để hiểu rõ nội dung này, con nhất thiết phải thấu suốt
các nguyên nhân của lạm phát. Vì thế, không sợ mất thời
gian, con hãy phân tích rõ ràng những gì con hiểu về các
45. nguyên nhân của lạm phát. Từ đó, ta sẽ giải thích cho con
về lãi suất thực âm như thế nào.” (Chú thích: phần phân
tích này có thể rất khó, nếu bạn không có nhiều thời gian
nghiên cứu, có thể bỏ qua phần nguyên nhân thứ nhất,
thứ hai, thứ ba. Tuy nhiên nguyên nhân thứ tư thì bắt
buộc phải đọc cho cẩn thận.)
Được dịp bày tỏ kiến thức, tôi nói: “Nguyên nhân thứ
nhất: lạm phát ỳ là do dân chúng mất niềm tin vào đồng
tiền do chính phủ Babylon in ra. Họ nghĩ rằng chính phủ
sẽ in thêm tiền để tài trợ cho chi tiêu chính phủ trong
thời gian tới. Dẫn đến mất đi sức mua của những đồng
tiền hiện hữu đang lưu hành. Vì thế dân chúng tự ý hạch
toán chi phí (chi phí kinh doanh, chi phí nguyên vật liệu
đầu vào, chi phí hàng hóa…) tăng lên tương ứng với mức
lạm phát mà họ kỳ vọng. Điều này làm cho giá cả tăng lên
một cách méo mó, mặc dù chính phủ không hề in thêm
tiền.”
Người Đỡ Đầu nói với vẻ rất hài lòng: “Tốt lắm, thế còn
nguyên nhân thứ hai?”
46. Tôi uống một ít nước thấm giọng và nói tiếp: “Nguyên
nhân thứ hai đó là lạm phát do cầu kéo. Vì một lý do nào
đó mà tiêu dùng tư nhân gia tăng, hoặc đầu tư tư nhân
gia tăng, hoặc thậm cho do chi tiêu chính phủ gia tăng,
một trong những yếu tố này gia tăng sẽ làm cho tổng cầu
của cả nền kinh tế Babylon gia tăng. Đường tổng cầu AD
dịch sang phải. Dẫn đến giá cả gia tăng. Nếu ban đầu nền
kinh tế đã toàn dụng thì bây giờ, giá cả sẽ tăng lên còn
nhanh hơn nữa. Và đây chính là lạm phát do cầu kéo, tức
tổng cầu tăng kéo giá cả tăng theo. Có thể hiểu đơn giản
là nếu tự nhiên có quá nhiều người mua hàng, họ giành
giật nhau mua thì tức khắc giá cả sẽ tăng lên.”
Người Đỡ Đầu nói: “Tốt, cách nói đơn giản của con rất dễ
hiểu. Hãy nhớ là con phải luôn luôn cố gắng diễn tả càng
đơn giản càng tốt. Nếu như con có thể diễn tả vấn đề nào
đó một cách vô cùng ngắn gọn, thì điều đó có nghĩa là
con đã hiểu nó rất rõ.”
47. Tôi tiếp tục trình bày: “Nguyên nhân thứ ba là lạm phát
do chi phí đẩy. Nói một cách dễ hiểu đó là khi giá cả các
yếu tố đầu vào gia tăng, thì các doanh nghiệp sẽ nâng giá
sản phẩm đầu ra để bù cho sự gia tăng giá của yếu tố đầu
vào. Mặc dù mối quan hệ này không phải là quan hệ 1 –
1. Nhưng cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến giá sản
phẩm đầu ra (Ví dụ giá yếu tố đầu vào tăng 10% thì giá
sản phẩm đầu ra sẽ tăng 5%, nghĩa là không phải 1 – 1
nhưng cũng rất ảnh hưởng, chẳng hạn 2 – 1). Còn nếu nói
một cách chính xác, thì thật ra doanh nghiệp không trực
tiếp nâng giá sản phẩm. Nhưng do chi phí sản xuất gia
tăng, làm đường sung ngắn hạn SAS giảm và dịch chuyển
sang trái. Điểm cân bằng thị trường chạy lên trên. Giá cả
gia tăng do quan hệ cung cầu thị trường quyết định. Nền
kinh tế có lạm phát.”
Người Đỡ Đầu bổ sung: “Lạm phát này nghiêm trọng đến
nỗi người ta còn gọi nó là lạm phát đình đốn. Bởi vì sản
lượng nền kinh tế sụt giảm, thất nghiệp gia tăng, giá cả
gia tăng, lạm phát cao… Lạm phát này rất khó khắc phục,
chính phủ hầu như cũng đành bó tay.”
48. Tôi nói tiếp: “Nguyên nhân thứ tư là do chính phủ in tiền
để tài trợ cho chi tiêu. Hay nói đơn giản là chính phủ in
tiền để xài. Khi chính phủ in tiền, chính phủ được hưởng
trọn vẹn sức mua của một đồng tiền mới in ra, nhưng
đồng thời nó cũng làm giảm sức mua của tất cả những
đồng tiền hiện hữu đang lưu hành. Nói một cách khác,
đây là biện pháp chính phủ tước đoạt sức mua của
những người đang giữ tiền một cách hợp pháp. Nó hợp
pháp là bởi vì chính phủ được phép in tiền. Và chính vì nó
hợp pháp nên chính phủ không gọi là tước đoạt mà gọi là
thu thuế in tiền hay thu thuế lạm phát.”
Người Đỡ Đầu như muốn để cho tôi ngộ ra vấn đề tế nhị
này, người nói: “Nếu như con có quyền in tiền một cách
hợp pháp để tiêu xài, con có in không?”
Tôi nói: “Tất nhiên là có ạ.”
Người Đỡ Đầu nói tiếp: “Nhưng nếu việc in tiền của con
làm cho tất cả những người giữ tiền bị nghèo đi, trong
khi con giàu lên, thế thì con có in không?”
49. Tôi quả quyết: “Con sẽ in ạ.”
Người Đỡ Đầu nói: “Khi con làm như vậy, về mặt lý trí,
đúng là con rất khôn ngoan, nhưng về mặt đạo đức, mọi
người sẽ nói con ác.”
Tôi kết luận: “Thế thì con vừa ác vừa khôn ạ.”
Người Đỡ Đầu cười và nói: “Khi con không in thêm tiền
để xài, về mặt đạo đức, mọi người sẽ nói con tốt, còn về
mặt lý trí, mọi người sẽ nói con ngu.”
Tôi nhận ra dụng ý và sự hài hước của Người Đỡ Đầu, tôi
nói: “Nếu con không in thêm tiền để xài, có nghĩa là con
vừa tốt vừa ngu ạ.”
Người Đỡ Đầu hỏi tiếp: “Vậy nếu in thêm tiền, con sẽ in
đến khi nào thì dừng?”
50. Tôi trả lời: “Con sẽ in thêm tiền nhưng sẽ không để
những người con lại trên đảo Babylon này quá khổ sở. Vì
nếu họ quá khổ sở họ sẽ quay lại cắn con. Cho nên, in
thêm đến một mức nào đó vừa phải, để cho dù những
người còn lại biết con in tiền, những cũng chưa đủ độ
bức xúc, phẩn nộ đến mức họ chống đối lại.
Người Đỡ Đầu nói: “Vừa rồi chúng ta đã bàn về một
nguyên nhân dẫn đến lãi suất thực âm, đó chính là lạm
phát cao hơn lãi suất danh nghĩa. Bây giờ ta sẽ phân tích
một tình huống, đó là ngay cả khi lạm phát bằng với lãi
suất danh nghĩa thì lãi suất thực vẫn âm. Đây là một bí
mật mà chưa từng được diễn giả nào phân tích. Chỉ có
những Nhà Kinh Tế Học mới nhìn ra mà thôi.”
NỘI DUNG 02 - LÃI SUẤT THỰC ÂM DO CHÍNH PHỦ THU
THUẾ VÔ LÝ
Người Đỡ Đầu cho ví dụ: “Giả sử con mua một mảnh đất
giá 50.000 đơn vị tiền Babylon. Lạm phát là 20% / năm.
Và giả sử cuối năm mảnh đất này có giá 60.000 đơn vị
51. tiền Babylon. Như vậy mảnh đất này tăng giá bao nhiêu
phần trăm?”
Tôi vốn học toán rất giỏi nên vấn đề này tôi tính rất
nhanh: “Dạ mảnh đất tăng giá 20% ạ.”
Người Đỡ Đầu gợi ý: “Như vậy con nhận ra điều gì về sự
tăng giá này? Liệu con có lời trong thương vụ này
không?”
Tôi trả lời: “Có vẻ như sự tăng giá này chẳng qua chỉ là sự
bù đắp lạm phát mà thôi. Chứ giá trị tài sản của con
không hề gia tăng. Sức mua cũng không có gì thay đổi.”
Người Đỡ Đầu đắc ý nói: “Vấn đề nằm ở chỗ đó. Mặc dù
giá bất động sản của con tăng 20%, nhưng lạm phát cũng
20%, nên con chả có lợi lộc gì trong thương vụ này, bởi vì
lạm phát đã tước đi phần lời của con.”
52. Tôi im lặng ngồi nghe, Người Đỡ Đầu dừng lại một lúc
cho tôi suy nghĩ, rồi ông hỏi: “Thế nếu con bán mảnh đất
này đi, được 60.000 đơn vị tiền Babylon. Con có phải
đóng thuế không?”
Tôi bàng hoàng khi nghe câu hỏi của Người Đỡ Đầu: “Thì
ra chính phủ không cần biết lạm phát bao nhiêu phần
trăm, họ chỉ cần thấy con lời 10.000 đơn vị tiền Babylon
từ bán mảnh đất. Thế là họ sẽ bắt con đóng thuế 25%
thôi. Mặc dù số tiền 10.000 đơn vị Babylon này chỉ là tiền
lời danh nghĩa. Mặc dù nó chỉ đủ bù lạm phát. Thế mà
con vẫn phải đi đóng thuế oan ức.”
Thấy tôi có vẻ bức xúc, Người Đỡ Đầu an ủi: “Con không
việc gì phải bức xúc như vậy đâu. Con hãy nhớ rằng chính
phủ có quyền thu thuế. Chính phủ đã không thu được
thuế lạm phát của con thì chính phủ phải tìm mọi cách
khác để thu thuế chứ.”
Tôi ngờ nghệch hỏi: “Tại sao sư phụ nói chính phủ đã
không thu được thuế lạm phát của con?”
53. Người Đỡ Đầu giải thích: “Con hãy tự trả lời xem. Ai là
người chịu thuế lạm phát?”
Tôi trả lời: “Người nào giữ tiền mặt thì người đó chịu
thuế lạm phát ạ.”
Người Đỡ Đầu hỏi thêm: “Thế trong thương vụ này, con
giữ tiền mặt hay giữ đất?”
Tôi đã hiểu ra vấn đề. Trong trường hợp này, tôi đã
không giữ tiền mặt mà thay vào đó, tôi giữ bất động sản.
Như thế tôi đã né tránh được tác động của lạm phát
(trong đó có cả thuế lạm phát). Bởi thế tôi đã né được
thuế lạm phát. Nhưng chính phủ sẽ không buôn tha cho
tôi. Họ sẽ thu thuế lợi tức (danh nghĩa) của tôi, mặc dù
lợi tức thực là 0. Như vậy sau khi đóng thuế lợi tức (danh
nghĩa). Tôi chỉ còn lời danh nghĩa là 7.500 / 50.000 = 15%.
54. Tôi nói với Người Đỡ Đầu: “Như vậy suất thu lợi thực tế
của con trong thương vụ này là 15% (suất thu lợi danh
nghĩa) trừ 20% (lạm phát) bằng âm 5%. Haiz…”
Tôi thở dài và than thở: “Thật bất công.”
Người Đỡ Đầu một lần nữa an ủi: “Ta nhắc lại cho con
một lần nữa. Chính phủ hoàn toàn có quyền thu thuế của
con. Ngay cả khi con không có lời, chính phủ cũng có
quyền thu thuế. Con không được than thở mà con hãy
suy nghĩ. Suy nghĩ xem có cách giải quyết nào không chứ
không được ngồi đó than thở.”
Nhìn thái độ nghiêm khắc của Người Đỡ Đầu, tôi đã ngộ
ra: “Con hiểu rồi, trách nhiệm của con là làm cho tiền của
con gia tăng nhiều hơn lạm phát và thuế suất. Như vậy
thì bảo đảm suất thu lợi thực tế của con mới có thể
dương được.”
55. Người Đỡ Đầu hài lòng lắm, ông nói: “Tốt lắm con. Con
đúng là học trò ưu tú của ta. Rất ít người phát hiện ra
điều này. Thường thì họ làm cho tiền của họ gia tăng lớn
hơn lạm phát là họ đã mừng lắm rồi. Nhưng như thế vẫn
chưa đủ. Bởi sau khi đóng thuế, suất thu lợi thực tế vẫn
có thể trở thành số âm. Cho nên, chẳng những con phải
làm cho tiền của con gia tăng cao hơn lạm phát mà còn
phải cao hơn thuế suất. Có như vậy mới bảo đảm suất
thu lợi thực tế của con dương được.”
Uống một ngụm nước, Người Đỡ Đầu kết luận: “Bây giờ
thì con đã hiểu rõ tại sao ta nói lãi suất thực âm chưa? Có
khi người ta gọi nó là lãi suất thực, cũng có khi người ta
gọi nó là suất thu lợi thực tế. Nhưng thường thì nó âm
nếu như lãi suất danh nghĩa hay suất thu lợi danh nghĩa
thấp. Và ý nghĩa của chương này đó là trách nhiệm của
con đối với tiền của con. Trách nhiệm của con là hãy làm
cho tiền của con gia tăng cao hơn cả lạm phát và thuế
suất. Nếu không, con sẽ không bao giờ giàu có được.”
56. Ông biết tôi hiểu ông đang nói gì. Nhưng vì kiến thức này
mới mẻ quá nên thấy tôi có vẻ trầm ngâm, ông nói tiếp:
“Chúng ta sẽ kết thúc ở đây. Chương sau chúng ta sẽ
phân tích sâu hơn về suất thu lợi danh nghĩa. Xem nó
khoảng bao nhiêu là vừa. Nó phải tối thiểu là bao nhiêu
so với lạm phát và thuế suất? Nếu không, suất thu lợi
thực tế vẫn có thể âm ngay cả khi suất thu lợi danh nghĩa
lớn hơn lạm phát.”
Như vậy nội dung chương 06 rất khó và cũng không cần
thiết lắm. Đọc giả nào thấy quá khó hiểu thì cứ bỏ qua
chương 06, đọc tiếp chương 07 cũng được. Còn nếu đọc
giả nào có hứng thú với những con số, thì hãy nghiên
cứu. Đương nhiên rất là thú vị mà hiếm có người biết
được bí mật này.
Mời các bạn xem tiếp Chương 06 – SUẤT THU LỢI DANH
NGHĨA TỐI THIỂU KHOẢNG BAO NHIÊU
57. NGƯỜI NGHÈO NUÔI NGƯỜI GIÀU – CHƯƠNG 06 – SUẤT
THU LỢI BAO NHIÊU?
NGƯỜI NGHÈO NUÔI NGƯỜI GIÀU
CHƯƠNG 06
SUẤT THU LỢI DANH NGHĨA TỐI THIỂU PHẢI BAO NHIÊU?
Người Đỡ Đầu rất chú trọng đến suất thu lợi. Ông nói:
“Nếu suất thu lợi của con thấp, con sẽ tích lũy rất lâu mới
được một số tiền lớn. Còn nếu suất thu lợi cao, sự tích
lũy này sẽ rất nhanh theo cấp số nhân.”
Tôi nói: “Nhiều nhà kinh doanh ở Mỹ nói rằng họ hài lòng
với suất thu lợi bình quân 16%/năm trở lên. Không biết
sư phụ có nhận định nào không?”
Người Đỡ Đầu trả lời: “Ở Mỹ, do áp lực từ dân chúng
cũng như áp lực từ Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ (viết tắt là
FED), nên lạm phát không cao. Nếu lạm phát cao quá thì
58. dân chúng sẽ phản đối và biểu tình. Bên cạnh đó Cục Dự
Trữ Liên Bang Mỹ (FED) cũng không cho phép chính phủ
tự ý in tiền bừa bãi. Thế nên lạm phát ở Mỹ thấp, và vì
vậy người ta kỳ vọng một suất thu lợi không cao. Khoảng
16%/năm là các doanh nghiệp đã rất hài lòng. Trong khi
dân chúng thì 4%/năm họ cũng hài lòng.”
Tôi thắc mắc: “Nếu lạm phát cao thì dân chúng ở Mỹ sẽ
phản đối và biểu tình. Vậy tại sao người dân trên đảo
quốc Babylon của chúng ta không biểu tình? Con thấy
lạm phát ở đất nước Babylon chúng ta cao quá.”
Người Đỡ Đầu cười nói: “Vì ở Mỹ họ tự do ngôn luận. Họ
là một đất nước tự do thật sự, dân chủ thật sự. Hoặc ít
nhất họ cũng rất tự do và dân chủ hơn chúng ta nhiều.
Thế nên người dân nước họ có thể biểu tình gây áp lực
cho chính phủ, khiến chỉnh phủ không tự ý in tiền làm bất
ổn cuộc sống của nhân dân.”
59. Tôi vẫn còn thắc mắc: “Thế tại sao FED có quyền không
cho phép chính phủ in tiền? Chẳng lẽ FED không thuộc
chính phủ như đất nước Babylon chúng ta sao?”
Người Đỡ Đầu nói: “Ở Babylon chúng ta, Ngân Hàng
Trung Ương dưới quyền chính phủ. Thế nên nếu chính
phủ muốn in tiền xài thì Ngân Hàng Trung Ương sẽ in.
Còn ở Mỹ, FED là một ngân hàng tư nhân, thuộc sở hữu
của những gia tộc hùng mạnh về tài chính (xem thêm
quyển CHIẾN TRANH TIỀN TỆ). Không nằm dưới quyền
chính phủ Mỹ. Vì thế họ không nhất thiết phải làm theo
mệnh lệnh của chính phủ. Họ sẽ độc lập sử dụng chính
sách tiền tệ của mình để điều tiết kinh tế vĩ mô.”
Tôi nói: “Với tình hình hiện nay trên đất nước Babylon,
lạm phát cao như vậy, người ta phải kỳ vọng một suất
thu lợi cao, ít nhất cũng phải bù được lạm phát.”
Người Đỡ Đầu đồng tính: “Đúng đấy con. Tiếc là đa số
người ta không hiểu điều này. Người nghèo tiết kiệm,
không biết đầu tư vào đâu. Họ đành phải gởi vào ngân
60. hàng với một suất thu lợi thấp hơn lạm phát. Đồng tiền
của họ đang bị xói mòn nghiêm trọng mà họ không biết.
Hay cũng có thể họ biết nhưng không làm gì được.”
Tôi nói: “Còn người giàu họ thông minh về tài chính hơn.
Họ biết cách làm cho đồng tiền của họ sinh lời cao. Tệ
nhất cũng 20%/năm. Còn nhiều hơn nữa thì càng tốt.”
Người Đỡ Đầu hỏi: “Nếu đồng tiền sinh lời 20%/năm thì
sau bao lâu nó sẽ tăng gấp đôi.”
Tôi trả lời: “Người không có kiến thức về tài chính sẽ nghĩ
mỗi năm tăng 20%, vậy thì sau 5 năm số tiền sẽ tăng gấp
đôi. Tuy nhiên đối với người am hiểu về tài chính thì đây
là một hàm số mũ. Chỉ cần 3,8 năm thì số tiền sẽ tăng gấp
đôi.”
Người Đỡ Đầu tỏ vẻ hài lòng, ông tiết lộ: “Có những
người giàu biết cách làm cho đồng tiền của họ sinh lời
3%/tháng. Nếu thế thì một năm là bao nhiêu?”
61. Chưa đầy một phút bấm máy tính, tôi trả lời: “Nếu đồng
tiền sinh lời 3%/tháng thì suất thu lợi một năm sẽ là
42,5%. Và như thế chỉ cần chưa tới 2 năm (đương nhiên
là dùng hàm số mũ) thì số tiền gốc sẽ tăng gấp đôi.”
Người Đỡ Đầu rất tâm đắc, ông đố: “Vậy ta đố con, sau
20 năm số tiền của họ tăng gấp bao nhiêu lần?”
Tôi trả lời: “2 mũ 10 là 1.024 lần ạ. Nếu ban đầu con có
1.000 USD thì sau 20 năm con sẽ có hơn 1 triệu USD.”
Suy nghĩ một lúc tôi nói tiếp: “Nếu thêm 20 năm nữa thì
số tiền sẽ lớn hơn 1 tỷ USD.”
Người Đỡ Đầu hỏi cắt cớ: “Vậy nếu thêm 20 năm nữa thì
sao? Lúc này có lẽ vẫn còn sống mà phải không?”
62. Tôi cười và nói: “Nếu bắt đầu từ lúc 20 tuổi có 1.000 USD
thì 40 tuổi sẽ có 1 triệu USD, 60 tuổi có 1 tỷ USD, và 80
tuổi có 1.024 tỷ USD.”
Nói rồi tôi nghĩ: “Sao có thể lớn như vậy được? Điều này
có khả thi không sư phụ?”
Người Đỡ Đầu giải thích: “Về lý thuyết thì có thể. Nhưng
trên thực tế thì hơi khó. Bởi khi số tiền ít, người giàu sẽ
quản lý dễ dàng để đạt được suất thu lợi cao. Nhưng cơ
hội này thì không nhiều. Do đó khi số tiền quá nhiều, các
cơ hội tốt đã được tận dụng hết rồi. Người giàu buộc
phải đầu tư vào những cơ hội có suất thu lợi thấp hơn.
Thậm chí rất thấp. Lúc này tiêu chí của người giàu không
phải là suất thu lợi cao, mà tiêu chí hàng đầu của họ là an
toàn vốn.”
Tôi thắc mắc: “Tại sao khi có quá nhiều tiền thì tiêu chỉ
của người giàu không phải suất thu lợi cao? Chẳng lẻ suất
thu lợi cao là rủi ro sao? Thế trước đó tại sao họ lại chấp
nhận rủi ro?”
63. Người Đỡ Đầu trả lời: “Con thử nghĩ xem, ban đầu với số
tiền nhỏ con quản lý ít tốn công sức. Và dễ dàng tìm thấy
những kênh đầu tư hiệu quả cao. Khi số tiền của con dần
dần nhiều lên, các cơ hội tốt con đã tận dụng hết. Lúc
này sự quản lý của con tốn nhiều công sức hơn. Mà khi
sự quản lý chiếm quá nhiều thời gian và công sức của con
thì rủi ro có thể sẽ tăng lên. Như vậy, với số tiền lớn hơn,
con khó có thể vừa muốn có suất thu lợi cao, vừa muốn ít
tốn thời gian quản lý lại cũng vừa muốn rủi ro thấp. Điều
này có thể sẽ khó đạt được.”
Tôi kết luận: “Như vậy khi số tiền càng cao, suất thu lợi
cao khó đạt được, chính vì thể con số 1.024 tỷ USD về
mặt lý thuyết thì có nhưng về mặt thực tế thì không dễ.”
Người Đỡ Đầu nói: “Phải. Tuy nhiên, con hãy cố gắng học
hỏi, tìm tòi, thử nghiệm để cho số tiền của con sinh sôi
nảy nở khoảng trên dưới 3%/tháng. Như thế con nhất
định sẽ mau chóng trở nên giàu có.”
64. Tôi hỏi: “Sư phụ có thể chỉ cho con biết những ngành nào
có thể tạo ra suất thu lợi 3%/tháng không?”
Người Đỡ Đầu trả lời: “Có rất nhiều ngành có thể tạo ra
suất thu lợi cao, thậm chí có ngành rất cao. Chẳng hạn
5% hay 10%/tháng cũng có. 3% chỉ là con số bình thường.
Vấn đề là con muốn nhúng tay vào đó như thế nào mà
thôi. Ví dụ con mua một chiếc áo giá 100USD và ngay sau
đó bán được 110USD. Vậy tức là con đã lời 10%/ngày.
Tuy nhiên, lúc này con phải can thiệp sâu vào việc kinh
doanh, người ta gọi đây là thu nhập chủ động. Còn một
người khác, cho bạn của anh ta vay 100USD, cuối tháng
lấy về 103USD. Tức là anh ta kiếm lời 3%/tháng. Nhưng
lúc đó anh ta không phải can thiệp quá sâu vào kinh
doanh. Thu nhập 3%/tháng của người thứ hai gọi là thu
nhập thụ động, nói cách khác là ngồi không hưởng lợi.
3%/tháng tuy ít hơn 10%/ngày nhưng bù lại người thứ
hai rất nhàn hạ.”
Tôi hiểu ra vấn đề và nói: “Như vậy suất thu lợi bao nhiêu
một tháng cũng có thể đạt được, vấn đề là tùy chúng ta
65. muốn nó là thu nhập chủ động hay thụ động. Nếu muốn
suất thu lợi cao thì đa số thu nhập đó là thu nhập chủ
động. Còn muốn được nhàn hạ, thì phải tạo ra thu nhập
thụ động, suất thu lợi của thu nhập thụ động thường thì
không cao.”
Người Đỡ Đầu nói: “Con đã hiểu đúng rồi đấy. Vấn đề
tiếp theo là con sẽ tự lựa chọn nhiều kênh đầu tư và kinh
doanh cho bản thân con. Những kênh nào con thấy phù
hợp thì hãy mạnh dạn thử. Nếu không phù hợp thì bỏ ra.
Còn nếu thấy hiệu quả và phù hợp với con thì tiếp tục
đầu tư. Nên đầu tư vào nhiều kênh để có kinh nghiệm,
kiến thức ở nhiều lĩnh vực. Sự hiểu biết của con sẽ đa
dạng phong phú. Bên cạnh đó con cũng có nhiều nguồn
thu nhập. Như thế sẽ rất an toàn cho con.”
Tôi đáp: “Con hiểu rồi. Không nên bỏ tất cả trứng vào
cùng một rổ. Đầu tư vào nhiều kênh vừa giúp con có kiến
thức rộng, tầm nhìn rộng, sự hiểu biết sẽ hoàn thiện mà
lại vừa an toàn vốn. Con cảm ơn sư phụ đã chỉ dạy.”
66. Ngừng một lúc tôi hỏi thêm: “Thế sư phụ có thể phân
tích cho con cái lợi và cái hại của từng kênh cụ thể
không?”
Người Đỡ Đầu nói: “Trong một chừng mực nào đó, với
những kiến thức mà ta có được, ta sẽ từ từ phân tích cho
con. Hiện nay cũng có nhiều sách trình bày khá rõ, con có
thể tìm đọc. Ta chỉ phân tích những khía cạnh mà các tác
giả khác chưa phân tích hoặc nếu họ đã phân tích rồi thì
ta sẽ phân tích lại cho phù hợp với thị trường cụ thể của
đảo quốc Babylon. Như thế con sẽ có thể dễ dàng đầu tư
và kinh doanh trong môi trường kinh tế chính trị cụ thể
của Babylon chúng ta.”
Tôi hỏi: “Như vậy trong chương tiếp theo sư phụ sẽ phân
tích kênh đầu tư nào ạ?”
Người Đỡ Đầu trả lời: “Hàng loạt chương sau ta sẽ phân
tích mỗi chương một kênh. Để từ đó con có cái nhìn
chiến lược về các kênh đầu tư kinh doanh và ứng dụng
cho chính mình. Như vậy chương tiếp theo ta sẽ phân
67. tích về NGƯỜI NGHÈO MUA HÀNG TRẢ GÓP ĐỂ NUÔI
NGƯỜI GIÀU.”
Mời các bạn đón đọc Chương 07 – NGƯỜI NGHÈO MUA
HÀNG TRẢ GÓP ĐỂ NUÔI NGƯỜI GIÀU