SlideShare a Scribd company logo
1 of 14
Thị trường Chứng khoán Luân Đôn
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Sàn giao dịch chứng khoán London nằm tại London, Anh. Được thành lập từ 1801, đây là một trong những
cơ sở giao dịch chứng khoán lâu đời nhất thế giới, với nhiều công ty trong nước Anh và ở nước ngòai niêm
yết.Tính đến tháng 6 năm 2011, Sàn Giao dịch đã có một vốn hóa thị trường USD 3,7495 nghìn tỷ, làm cho nó
thị trường chứng khoán lớn thứ tư trên thế giới (và là lớn nhất ở châu âu) Trụ sở của London Stock Exchange
hiện đặt tại số 10, quảng trường Paternoster gần nhà thờ St Paul, trung tâm của thành phố London

                                          Mục lục
                                             [ẩn]


1 Lịch sử

 o      1.1 Quán cà phê

 o      1.2 Sàn giao dịch Hoàng gia

 o      1.3 Bộ luật đầu tiên

             1.3.1 Thị trường chứng khoán trước chiến tranh thế giới

             1.3.2 Chiến tranh thế giới thứ nhất

             1.3.3 Sau chiến tranh

             1.3.4 "Big Bang"

2 Các hoạt động

 o      2.1 Thị trường sơ cấp

[sửa]Lịch       sử
              Thông tin trong bài (hay đoạn) này không thể kiểm chứng được do không được chú giải từ bất
              kỳ nguồn tham khảo nào.
              Xin bạn hãy cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn uy tín. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì hãy
              chuyển nguồn tham khảo từ phiên bản đó cho bài này.



               Bài hoặc đoạn này cần được wiki hóa theo các quy cách định dạng và văn phong Wikipedia.
               Xin hãy giúp phát triển bài này bằng cách liên kết trong đến các mục từ thích hợp khác.



[sửa]Quán         cà phê
Sàn Giao dịch Hoàng gia đã được thành lập bởi Thomas Gresham trên mô hình của Antwerp Bourse, được
xem như là một thị trường chứng khoán. Nó đã được thành lập bởi Nử hoàng Elizabeth đệ nhất vào năm
1571.

Trong thế kỷ 17, các nhà môi giới chứng khoán không được phép tham gia vào sàn giao dịch Hoàng gia do
cách cư xử thô lỗ của họ. Họ phải hoạt động trong những cơ sở khác ở gần đó, trong đó đặc biệt là quán cà
phê Jonathan. Tại quán cà phê đó , một nhà môi giới tên là John Casting bắt đầu niêm yết giá của một vài mặt
hàng, tỷ giá hối đoái và các điều khoản quan trọng về than đá, muối và giấy trong 1698. Ban đầu, đây không
phải là danh sách được xuất bản hàng ngày mà chỉ có vài ngày trong tuần.

Sau đó bản danh sách này và các hoạt động giao dịch được chuyển đến quán cà phê Garraway. Những cuộc
đấu giá công cộng trong lúc này đã được thực hiện trong suốt khoản thời gian mà ngọn nến cháy và kết thúc
khi ngọn nến tàn ,việc này còn được gọi là phiên đấu giá "dựa trên chiều dài của ngọn nến" . Khi cổ phiếu tăng
giá, cùng với các công ty mới tham gia để huy động vốn, hội đồng hoàng gia cũng đặt thêm một số tiền. Đây là
những dấu hiệu sớm nhất của việc tổ chức kinh doanh trong thị trường chứng khoán tại London.

[sửa]Sàn      giao dịch Hoàng gia
Sau khi sàn giao dịch Gresham bị phá hủy trong trận hỏa hoạn ở London,sau đó nó được xây dựng lại và tái
thành lập vào năm 1669. Đây là một bước ngoặc trong việc ra khỏi phạm vi các quán cà phê và là bước tiến
đến mô hình của thị trường chứng khoán hiện đại.

Sàn Giao dịch Hoàng gia không chỉ dành cho nhà môi giới mà còn cho các thương nhân và hàng hóa. Đây là
sự ra đời của thị trường chứng khoán có quy định, việc này đã làm nảy sinh vấn đề là sự hình thành của
những công ty môi giới không có giấy phép. Để điều chỉnh vấn đề này, Quốc hội đã thực hiện một số hành
động trong năm 1697 đặt ra những khoản phạt nặng, cả về tài chính và pháp lí đối với những nhà môi giới
không có giấy phép. Nó đã thiết lập ra một con số cố định các nhà môi giới (100), mà sau này tăng lên khi
thương mại phát triển. Sự cố định này đã dẫn đến việc phát sinh một số vấn đề, một trong số đó là thương
nhân đã bắt đầu rời khỏi Sàn Giao dịch Hoàng gia, tự nguyện hoặc bị trục xuất và bắt đầu giao dịch trên
đường phố London. Trên đường nơi họ giao dịch còn được biết đến như “Phố Giao dịch và trao đổi” đây là nơi
thích hợp vì được đặt gần Ngân hàng Anh. Quốc hội đã cố gắng để điều chỉnh lại và ra lệnh cấm các thương
nhân không hợp lệ giao dịch trên những con phố.

Các công ty đã trở nên kiệt quệ như “bong bóng” khi các công ty liên tục mọc lên và phá sản một cách nhanh
chóng, vì vậy họ đã thuyết phục Quốc hội thông qua một điều khoản ngăn chặn các công ty không phù hợp
hình thành.

Sau cuộc chiến tranh bảy năm (1756-1763), việc giao dịch tại quán cà phê Jonathan lại bùng nổ một lần nữa.
Trong năm 1773, Jonathan, cùng với 150 nhà môi giới khác, thành lập một câu lạc bộ và mở một "sàn giao
dịch chứng khoán" mới và chính thức hơn trong phố Sweeting. Điều này đã đạt ra một khoản phí tham gia, sau
khi nộp khoản phí này thương nhân có thể vào phòng chứng khoán và giao dịch chứng khoán.Tuy nhiên đây
không phải là vị trí duy nhất để giao dịch, các cuộc giao dịch cũng diễn ra trong các gian phòng lớn của Ngân
hàng Anh. Gian lận, lừa gạt cũng hoành hành trong những thời gian này và để ngăn chặn các cuộc giao dịch
đó, đã có đề xuất là những người sử dụn phòng chứng khoán trả thêm lệ phí gia tăng.Điều này không được
hoan nghênh và cuối cùng, giải pháp được đặt ra dưới hình thức lệ phí hàng năm và nó được chuyển đến Sàn
Giao dịch vào phòng đăng ký chứng khoán.
Phòng Đăng ký được thành lập vào năm 1801 là nơi được tuân theo quy định đầu tiên ở London, nhưng sự
chuyển đổi không được hoan nghênh tất cả các bên. Vào ngày đầu tiên của phiên giao dịch,những người
không phải là thành viên đã bị trục xuất bởi một nhân viên cảnh sát. Mặc dù sự lộn xộn này, một tòa nhà mới
và lớn hơn đã được lên kế hoạch, tại hội đồng Capel.

William Hammond đặt viên đá đầu tiên cho tòa nhà mới này vào ngày 18 tháng năm. Nó được hoàn thành vào
ngày 30 tháng 12 khi dòng chữ "giao dịch chứng khoán" được khắc trên lối vào.

[sửa]Bộ   luật đầu tiên
Trong những năm hoạt động đầu tiên của thị trường, nhiều trường hợp đã làm xuất hiện rõ vấn đề là các quy
định hay những điều luật cơ chủ yếu bị thiếu trong hội đồng thương mại Capel.Vào tháng 2 năm 1812, Uỷ ban
hành chính đã tiếp thu các kiến nghị được đưa ra, mà sau này trở thành nền tảng của bộ luật đầu tiên được hệ
thống hóa của thị trường giao dịch. Mặc dù văn bản này không được hoàn thiện, cách giải quyết vấn đề khá
khuôn mẫu,nhưng trên thực tế,nó cũng khá toàn diện.

Cùng với những mệnh lệnh mới của chính phủ và sự gia tăng số lượng giao dịch tại đây, Thị trường chứng
khoán đã dần dần trở thành một bộ phận trong nền kinh tế của thành phố. Mặc dù những lời chỉ trích liên tục
từ báo chí và công chúng, chính phủ đã sử dụng tcác tổ chức chứng khoán để gia tặng một số lượng lớn tiền
cho các cuộc chiến tranh chống lại Napoleon. Thị trường trong và ngoài nước

Sau chiến tranh và đối mặt sự bùng nổ của nền kinh tế thế giới, nước ngoài cho các thị trường tiềm năng như
Brazil, Peru và Chile vay. Đặc biệt, thị trường nước ngoài cũng cho phép các nhà buôn và thương gia tham gia
vào và Sàn giao dịch Hoàng gia đã chủ trì tất cả các phiên giao dịch có nước ngoài tham gia. Sự gia tăng ngày
càng lớn của việc kinh doanh ở nước ngoài dẫn đến việc kinh doanh chứng khoán nước ngoài cũng phải được
cho phép trong thị trường chứng khoán trong nước.

Giống như London nơi trở nên khá hứng thú với sự phát triển của thương mại quốc tế, vương quốc Anh cũng
được hưởng lợi từ sự bùng nổ kinh tế. Hai thành phố khác đã đặc biệt thể hiện sự phát triển mạnh mẽ trong
lĩnh vực kinh doanh, cụ thể là Liverpool và Manchester. Do đó, trong năm 1836, cả hai thị trường chứng khoán
Manchester và Liverpool được mở ra. Đây cũng là khoản thời gian mà môi giới chứng khoán được công nhận
là một nghề kinh doanh thực sự và thu hút nhiều doanh nhân tham gia. Tuy nhiên, khi bước vào thời kì suy
thoái, và vào năm 1835 "cơn hoảng loạn Tây Ban Nha " chạm đến thị trường, kéo dài đến 1 đến 2 năm sau đó.
Một số cổ phiếu tăng mạnh ở mức 10%, 20% và 30%, một tuần.

[sửa]Thị trường chứng khoán trước chiến tranh thế giới

Tháng 6 năm 1853, cả hai bên tham gia giao dịch và các nhà môi giới đã trở nên rất nhiều nên chiếm nhiều
diện tích, nên giờ đây thị trường chứng khoán trở nên đông đúc một cách bất tiện và kế hoạch mở rộng đã
được đặt ra.Sàn giao dịch đã được mở rộng phía tây, phía đông và phía bắc, sau đó đã có quyết định Sàn
Giao dịch cần một cơ sở hoàn toàn mới. Thomas Allason được bổ nhiệm làm kiến trúc sư chính, và tháng 3
năm 1854, một tòa nhà mới lấy cảm hứng từ The Great Exhibition đã được ra đời. Đây là một cải tiến lớn đối
với cả môi trường và không gian xung quanh, với hai tầng.

Vào giữa những năm 1800, điện thoại, mã băng và điện báo đã được phát minh. Những công nghệ mới đã trở
thành một cuộc cách mạng trong giao dịch ở thị trường chứng khoán. Mặc dù đã có liên kết giữa tất cả các
thành phố lớn trong nước trong những năm 1840, các nhà quản lý tại Sàn Giao dịch ban đầu không bị thuyết
phục bởi các lợi ích của điện thoại và nó không được áp dụng trước năm 1878. Hầu hết những lo ngại đều
gắn liền với cậu hỏi liệu việc kinh doanh trở nên thu hút hơn hoặc bị thất bại khi dùng các thiết bị mới. Người
quản lý cuối cùng đã đầu hàng ý kiến ban đầu của họ và điện thoại nhanh chóng trở thành một trong những
công cụ môi giới chứng khoán quan trọng nhất.

[sửa]Chiến tranh thế giới thứ nhất

Là trung tâm tài chính của thế giới, cả thành phố và các khu giao dịch chứng khoán chịu ảnh hưởng nặng nề
bởi sự bùng nổ của Thế chiến thứ nhất vào năm 1914. Lúc đầu, giá tăng do nỗi sợ hãi đang gia tăng rằng các
khoản tiền gửi đang bị rút lại và các ngân hàng nước ngoài đang có nhu cầu vay hoặc nâng cao lãi suất.Đã có
quyết định đóng cửa Sàn Giao dịch để xoa dịu tình hình và mở rộng ngân hàng August Holiday để ngăn chặn
việc rút tiền hàng loạt từ các ngân hàng,nó được vội vã thông qua bởi cả hai nơi Ủy ban và Nghị viện. Sàn
Giao dịch chứng khoán đã được đóng cửa từ cuối tháng Bảy cho đến năm sau, và một lần nữa các giao dịch
đường phố quay lại cũng như xuất hiện một “ hệ thống thách thức “ Sở Giao dịch đã được mở cửa trở lại vào
ngày 4 tháng 1 năm 1915 dưới sự một sự hạn chế , như tất cả các giao dịch đều phải bằng tiền mặt .Do
những hạn chế và khó khăn trong hoạt động kinh doanh gây ra bởi chiến tranh, hàng ngàn thành viên đã rời
khỏi sàn giao dịch giữa năm 1914 – 18 .Khi hòa bình cuối cùng cũng trở lại vào tháng nười một năm 1018 ,
tâm trạng sau chiến tranh trên sàn giao dịch cũng khá căng thẳng.

Vào năm 1923 , thị trường chứng khoán đã được nhận huy chương riêng của nó (coat of arms) với khẩu hiệu
“Dictum Meum Pactum”, Lời nói của tôi là sự cam kết của tôi Chiến tranh thế giới thứ hai

Năm 1937, kinh nghiệm từ Chiến tranh thế giới thứ nhất đã làm cho các quan chức tại Sàn giao dịch lập
những kế hoạch để xử lý các tình huống khi chiến tranh xảy ra. Một trong những mối quan tâm chính là các
cuộc không kích và đánh bom trong phạm vi của sàn giao dịch, và có một đề xuất là di dời đến Denham. Tuy
nhiên điều này đã không được diễn ra. Vào ngày đầu của tháng chín năm 1939, Sàn Giao dịch đã bị đóng cửa
"cho tới khi có thông báo tiếp theo" và hai ngày sau đó, tuyên bố chiến tranh đã được ban ra. Không giống như
từ cuộc chiến tranh trước, Sở Giao dịch mở cửa lại sáu ngày sau đó, vào ngày 07 tháng 9.

Khi chiến tranh leo thang vào năm thứ hai, những mối quan tâm cho cuộc không kích lớn hơn bao giờ hết.
Cuối cùng, vào đêm 29 tháng 12, 1940, một trong những vụ cháy lớn nhất trong lịch sử của London đã diễn ra.
Sàn giao dịch đã bị đánh bởi 1 quả bom, may mắn thay đã được dập tắt nhanh chóng. Kinh doanh trực tiếp
trên sàn đã giảm đáng kể và hầu hết các cuộc giao dịch đã được thực hiện qua điện thoại để giảm các thiệt
hại.
Sở Giao dịch trên thực tế chỉ đóng cửa trong một ngày trong cuộc chiến , vào năm 1945 do thiệt hại từ một
quả tên lửa V2, lúc đó giao dịch vẫn được tiếp tục trong tầng hầm ở nhà.

[sửa]Sau chiến tranh

Sau khi một số thời kỳ hỗn loạn, thị trường chứng khoán đã có những năm khởi sắc vào cuối những năm 1950
và công việc kinh doanh đã thực sự bùng nổ. Điều này đã đẩy các quan chức để tìm một địa điểm phù hợp
hơn cho trụ sở mới của mình. Công việc trên Stock Exchange Tower được bắt đầu vào năm 1967.Trụ sở mới
của sàn giao dịch cao 321 feet, có 26 tầng với Hội đồng Quản trị ở tầng cao nhất, và tầng giữa là nơi cho các
công ty trực thuộc hoạt động. Nữ hoàng Elizabeth II đã chính thức khánh thành tòa nhà vào ngày 08 tháng 11
1972 và công trình xây dựng hoàn thành đã trở thành 1 cột mốc cho sự phát triển của thành phố, với sàn giao
dịch rộng 23.000 ft vuông của nó. 1973 là năm của những thay đổi cho Sàn Giao dịch chứng khoán. Thứ
nhất,lệnh cấm kinh doanh đã được bãi bỏ. Một văn bản của Ủy ban Tư bản đề nghị cho phép cả phụ nữ và
những người nước ngoài vào. Và thứ hai, tháng ba, Sàn Giao dịch Chứng khoán London (chính thức) hợp
nhất với 11 thị trường giao dịch khu vực Anh và Ailen. Việc mở rộng này đã dẫn đến việc thành lập một chức
vụ mới là Giám đốc điều hành, sau quá trình tìm kiếm rộng rãi,vị trí này đã được trao cho Robert Fell. Các thay
đổi của Chính phủ cũng tiếp tục vào năm 1991, khi Hội đồng quản trị của sàn giao dịch chứng khoán được
thay thế bằng một Hội đồng quản trị được điều ra từ những thành viên của sàn giao dịch, điều hành và cơ sở
người dùng. Điều này cũng đánh dấu sàn giao dịch chứng khoán cũ nay đã đổi tên thành "Sàn Giao dịch
Chứng khoán Luân Đôn '. Chỉ số FTSE 100 (Footsie 100) đã được đưa ra bởi tờ Financial Times và người
cộng tác giao dịch chứng khoán trong tháng 2 năm 1984.Và nó đã trở thành một trong các chỉ số quan trọng
nhất của tất cả các và có khả năng theo dõi sự lên xuống của 100 công ty hàng đầu được liệt kê trên sàn giao
dịch.

[sửa]"Big Bang"

Sự kiện lớn nhất xảy ra vào năm 1980 chính là việc bãi bỏ một số quy định của thị trường tài chính ở Anh vào
năm 1986. Cụm từ Big Bang được đặt ra để mô tả các biện pháp như việc bãi bỏ các loại phí hoa hồng cố định
và sự phân biệt giữa những nàh đầu cơ chứng khoán và nhà môi giới chứng khoán trên sàn chứng khoán
London, cũng như thay đổi từ giao dịch bằng lời nói bằng giao dịch qua màn hình điện tử.

Trong năm 1995 thị trường chứng khoán thực hiện dự án thị trường đầu tư thay thế (Alternative Investment
Market), AIM, cho phép các công ty phát triển mở rộng ra thị trường quốc tế. Hai năm sau, Dịch vụ Thương
mại điện tử (Electronic Trading Service) viết tắt (SETS) đã được đưa ra, nâng cao tốc độ và hiệu quả cho thị
trường. Sau này, các dịch vụ CREST cũng đã được đưa ra. Năm của thiên niên kỷ mới, năm 2000, các cổ
đông đã bỏ phiếu để chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn : London Stock Exchange plc. LSE cũng
chuyển giao vai trò của nó từ danh sách những cộng ty cổ phần ở anh trở thành các cơ quan dịch vụ tài chính
(FSA-UKLA)
EDX London, một công ty đa quốc gia mới , được thành lập trong năm 2003 có mối quan hệ đối tác với Tập
đoàn OM. Sàn Giao dịch cũng đã thu nhận cộng ty Proquote, một nhà cung cấp các dữ liệu thị trường và các
hệ thống kinh doanh.

Tòa nhà Stock Exchange Tower đã trở thành thừa thãi với sự cải tiến của Big Bang, mà nó đã bỏ đi nhiều hoạt
động trực tiếp trên sàn giao dịch chứng khoán vì nó đã làm gia tăng việc sử dụng các hệ thống máy tính cho
phép giao dịch gián tiếp được ưu tiên hơn giao dịch trực tiếp. Như vậy, trong năm 2004, sàn giao dịch đã di
chuyển đến một trụ sở mới ở quảng trường Paternoster, gần Nhà thờ Thánh Paul.

Trong năm 2007 Sàn Giao dịch Chứng khoán London sáp nhập với Borsa Italiana, tạo thành Tập đoàn Giao
dịch Chứng khoán London (LSEG). Trụ sở chính của tập đoàn đặt ở quảng trường Paternoster .

[sửa]Các    hoạt động
[sửa]Thị   trường sơ cấp
Những nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ các công ty trên toàn thế giới tham gia thị trường vốn của London để huy
động nguồn vốn. LSE cho phép công ty huy động tiền, đưa ra lí lịch của họ và có được một số thông tin về giá
trị thị trường thông qua nhiều con đường, vì vậy có thể theo dõi thông tin các công ty qua toàn bộ tiến trình
IPO.

Sàn giao dịch mở thêm một số thị trường cho từng danh mục, tạo cơ hội cho các công ty có qui mô khác nhau
liệt kê ra. Công ty quốc tế có thể đưa ra một số sản phẩm tại London bao gồm cổ phiếu, chứng chỉ lưu kí và
nợ, cung cấp những cách thức khác nhau và các mức chi phí trong việc huy động vốn. Năm 2004 tập đoàn đã
mở một văn phòng ở Hồng Kông và đã thu hút hơn 200 công ty từ khu vực châu Á – Thái bình.

Đối với các công ty lớn có thể được đưa vào danh sách ở thị trường cao cấp . Điều này hoạt động như một
hình thức trong tình trạng tương đồng khi mà UKLA cũng như các tiêu chí của thị trường chứng khoán London
được đáp ứng. IPO lớn nhất (Phát hành cổ phiếu lần đầu)trên thị trường chứng khoán được kết thúc trong
tháng năm 2011 bởi cộng ty đa quốc gia Glencore plc. Công ty huy động được $10bn vào nguồn vốn, làm cho
nó trở thành một trong những lần IPO lớn nhất.

Trong điều khoản về chứng khoán của doanh nghiệp nhỏ hơn trong thị trường đầu tư thay thế (AIM). Đối với
công ty quốc tế bên ngoài của EU,nó áp dụng chứng chỉ lưu ký (DR) như một cách để lên sàn và huy động
vốn.

Những lợi ích trong việc tham gia một trong những thị trường chứng khoán bao gồm:

-Cung cấp khả năng truy cập vào vốn cho sự tăng trưởng và hoạt động tài chính cho những phát triển sau này

-Cả mở rộng phạm vi của cổ đông và tạo ra một thị trường cho cổ phiếu của công ty

-Dựa vào các giá trị trên thị trường chứng khoán đặt ra mục tiêu kinh doanh cho công ty
Có hai thị trường chuyên môn:

Thị trường chứng khoán chuyên nghiệp thị trường này tạo điều kiện tăng vốn thông qua phát hành các cộng
cụ chứng khoán nợ đặc biệt hoặc các chứng chỉ lưu kí (DRs) cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp. Thị trường
hoạt động dưới sự quản lí của Recognised Investment Exchange ( 1 công ty chiu trách nhiệm quản lí giao dịch
chứng khoán ở london), và vào tháng Bảy ,2011 nó có 32 DRs, 108 Trái phiếu châu âu và hơn 350 tín phiếu
trung hạn.

Thị trường gây quỹ chuyên môn là thị trường giao dịch chứng khoán dành riêng cho thị trường London, được
thiết kế để chấp nhận các quĩ mua xe phức tạp , các mô hình quản lý và chứng khoán. Nó thích hợp chỉ cho
các tổ chức , những chuyên gia và những nàh đầu tư có vốn hiểu biết cao.Thị trường gây quĩ đặc biệt là một
thị trường theo qui chế của EU và vì thế chứng khoán được phát hành trong thị trường phải thích hợp cho hầu
hết yêu cầu của nhà đầu tư tạo ra môi trường phù hợp cho nàh phát hành vào thị trường




Thị trường chứng khoán một số nước phát triển
Posted on November 25, 2008


Chỉ số S&P 500 (Mỹ)

Một chỉ số bao gồm 500 loại cổ phiếu được lựa chọn từ 500 công ty có mứcvốn hóa thị
trường lớn nhất của Mỹ. Chỉ số S&P 500 được thiết kếđể trở thành một công cụ hàng đầu
của thị trường chứng khoán Mỹ và cóý nghĩa phản ánh những đặc điểm rủi ro/lợi nhuận
của các công ty hàng đầu.
Các công ty được lựa chọn đểđưa vào chỉ sốđược lựa chọn ra bởi Ủy ban Chỉ số S&P, một
nhóm các nhà phân tích và nhà kinh tế của Standard & Poor. Chỉ số S&P 500 là chỉ
sốđo giá trị thị trường – giá trị của mỗi cổ phần trong chỉ số cân xứng với giá trị thị
trường của nó.
Chỉ số S&P 500 là một trong những chuẩn đánh giá thông thường nhất dành cho thị
trường chứng khoán Mỹ. Chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jonesđã từng là chỉ số nổi
tiếng nhất cho các cổ phiếu ở Mỹ, nhưng vì nó chỉ chứa 30 công ty, vì vậy hầu hết mọi
người tin rằng S&P 500 sẽ phản ánh thị trường tốt hơn vàđầy đủ hơn. Trên thực tế,
nhiều người coi nó làđịnh nghĩa của thị trường.
Những chỉ số phổ biến khác của Standard & Poor là S&P 600, một chỉ số của những
công ty có giá trị vốn hóa thị trường nhỏ từ 300 triệu – 2 tỉđôla, và S&P 400, một chỉ số
của các công ty có mức vốn hóa thị trường trung bình từ 2 – 10 tỉđôla.


Một số các sản phẩm dựa trên chỉ số S&P 500 có sẵn trên thị trường dành cho các nhà
đầu tư, bao gồm các quỹ chỉ số và ETFs. Tuy nhiên, việc cácnhà đầu tư cá nhân mua
được chỉ số là rất khó, bởi vìđể làm điều này buộc phải mua cả 500 cổ phiếu của các
công ty khác nhau.
(Nguồn: Saga)
Chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones (Mỹ)

Chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones hay Chỉ số bình quân công nghiệp
Dow Jones (tiếng Anh: Dow Jones Industrial Average, viết tắt DJIA, còn gọi Dow
30, Dow Jones công nghiệp, hoặc Dow Jones; phát âm như "Đao
Giôn"; NYSE: DJI) là một trong vài chỉ số thị trường chứng khoán được tạo ra
bởi Charles Dow, chủ báo The Wall Street Journalvà đồng sáng lập viên của công
ty Dow Jones & Company vào thế kỷ 19. Dow tập hợp chỉ số này đểđánh giá khu vực
công nghiệp của thị trường chứng khoán tại Hoa Kỳ. Nó là chỉ số Mỹ lâu đời thứ hai, chỉ
sau Chỉ số Trung bình Vận tải Dow Jones, cũng do Dow tạo ra.
Chỉ số tính giá trị của 30 công ty cổ phần lớn nhất và có nhiều cổđông nhất trong nước
Mỹ. Tuy tên có phần "công nghiệp", ít trong những thành phần ngày nay còn có liên
quan đến công nghiệp nặng. Chỉ số này được tính theobình quân gia quyền giá (price-
weighted average). Để chỉnh lại chỉ số sau các việc tách cổ phần và các sửa đổi khác, chỉ
số sử dụng bình quân gia quyền(weighted average), thay vì tính số bình quân các giá
chứng khoán thành phần. Tổng của các giá thành phần được chia bằng ước số thay đổi
lúc nào mà một chứng khoán thành phần được tách hoặc trả cổ tức bằng cổ phần, để
tính ra giá trị của chỉ số.Tại vì hiện nay ước sốít hơn một, giá trị của chỉ số cao hơn tổng
các giá thành phần.
(Nguồn: Wikipedia)
NASDAQ (Mỹ)

NASDAQ là chữ viết tắt của cụm từ National Association of Securities Dealers
Automated Quotations system, là sàn giao dịch chứng khoán điện tử của Mỹ, có giá trị
vốn hoá thị trường đứng thứ 3 thế giới (sau NYSE và Tokyo stock Exchange). Điểm khác
biệt quan trọng giữa NASDAQ với các sàn giao dịch chứng khoán lớn khác làở chỗ nó là
một sàn giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC).
Nasdaq được thành lập năm 1971 bởi Hiệp hội những người buôn bán chứng khoán
Quốc gia (NASD), và hiện đang được điều hành bởi Nasdaq Stock Market, Inc.
NASDAQ là sàn giao dịch chứng khoán điện tử lớn nhất nước Mỹ, với khoảng 3,200
công ty niêm yết và số lượng cổ phiếu giao dịch bình quân nhiều hơn bất kỳ sàn giao
dịch khác ở Mỹ, kể cả NYSE
Khi bắt đầu mở cửa giao dịch vào ngày 8/2/1971, NASDAQ là sàn thị trường chứng
khoán điện tử tiên phong trên thế giới.Lúc đầu, nó chỉđơn thuần là hệ thống bản điện tử
niêm yết giá chứ chưa thực sự kết nối giữa người mua với người bán. Tác dụng quan
trọng nhất lúc đó là nó giúp làm giảm mức chênh lệch giữa giámua(bid price) và giá
bán(ask price) cổ phiếu, gây bất lợi cho những tay môi giới chứng khoán thường kiếm
bộn nhờ chênh lệch này, song lại làm thị trường chứng khoán hoạt động nhộn nhịp hơn.
Vài năm sau, NASDAQ tiến gần hơn đến một sàn giao dịch chứng khoán theođúng
nghĩa của nó, khi đưa vào hoạt động hệ thống báo cáo và giao dịch chứng khoán
tựđộng. Cho đến năm 1987, hầu hết các giao dịch được tiến hành qua điện thoại, song
trong suốt cuộc khủng hoảng của thị trường chứng khoán năm 1987, những người tạo
lập thị trường hầu như không trả lời điện thoại.Đểđối phó với vấn đề này, Hệ thống thực
thi các lệnh nhỏ (SOES) đã ra đời, cung cấp cho những người mua bán chứng khoán
một phương thức giao dịch điện tử hoàn toàn mới, vàđểđảm bảo những giao dịch nhỏ
không bị bỏ qua.
(Nguồn: Saga)
FTSE 100 (Anh)

Chỉ số FTSE 100 (đọc là footsie) là chỉ số cố phiếu của 100 công ty có giá trị vốn hóa lớn
nhất được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Luân Đôn (LSE), được bắt đầu từ
ngày mùng 3 tháng 1 năm 1984, với điểm sàn là 1000.
Các công ty thành phần phải đáp ứng các yêu cầu của FTSE Group, bao gồm việc đã
niêm yết toàn diện trên sàn LSE với giáđược tính theo đồng bảng Anh hoặc đồng Euro
trên SETS (Stock Exchange Electronic Trading Service), vượt qua các kiểm tra về quốc
tịch, mức độ biến động giá tự do (free float) và tính thanh khoản. Giao dịch được tiến
hành từ 8:00 đến 16:29 (khi phiên đấu giá cuối cùng bắt đầu), và giáđóng cửa được lấy
lúc 16:35 (mặc dù hầu hết giáđóng cửa của FTSE 100 được lấy lúc 16:36). Giá trị cao
nhất của chỉ số FTSE 100 tính đến thời điểm này là 6950,6điểm, đạt được ngày 30
tháng 12 năm 1999.
Chỉ sốđược xem như phong vũ biểu của nền kinh tế Anh và là chỉ số cổ phiếu hàng đầu ở
châu Âu. Nóđược duy trì bởi FTSE Group, một công ty độc lập mà ban đầu là kết quả
của sự liên doanh giữa Financial Times và LSE (FTSE chính là viết tắt của Financial
Times Stock Exchange). Theo website của FTSE Group, 100 công ty FTSE 100 chiếm
đến 80% thị trường chứng khoán ở Anh.


Bên cạnh FTSE 100 Index, tập đoàn FTSE giới thiệu tiếp FTSE 250 Index (chỉ số của
250 công ty lớn tiếp theo), FTSE Fledgling, the FTSE 350 Index(tổng hợp của FTSE 100
và FTSE 250), FTSE SmallCap. Cuối cùng là FTSE All-Share, là chỉ số tổng hợp của cả 3
chỉ số FTSE 100 Index, FTSE 250 Index, và FTSE SmallCap.


Thành phần của chỉ số này được thay đổi từng quý.Những công ty lớn nhất trong FTSE
250 sẽđược đề cử nếu giá trị vốn hóa thị trường của chúng lọt vào top 90 của FTSE 100.
Năm 2006, ngưỡng đểđược đề cử là 2,9 tỷ bảng Anh. Đến ngày 29 tháng 9 năm 2006, 6
công ty thành phần lớn nhất của chỉ số FTSE 100 là BP, Royal Dutch Shell, HSBC
Holdings, the Vodafone Group, the Royal Bank of Scotland Group and
GlaxoSmithKline đều có giá trị trên 60 tỷ bảng.
(Nguồn: Saga)
DAX (Đức)


DAX 30 ((Deutscher Aktien IndeX 30, tên khác Deutscher Aktien-Index 30) là chỉ số
chứng khoán quan trọng nhất của Sở giao dịch chứng khoán Frankfurt.Chỉ số này được
tính dựa trên 30 loại cổ phiếu Blue-Chip được giao dịch ở Sở giao dịch chứng khoán
Frankfurt.
CAC 40 (Pháp)


Taiwan Weighted (Đài Loan)

Nikkei 225 (Nhật)


Chỉ số Nikkei 225 là chỉ số giá bình quân gia quyền của 225 loại cổphiếu(tính bằng
đồng Yên Nhật) lớn nhất tại Tokyo
Hang Sheng (Hongkong)

KOSPI Coposite (Hàn Quốc)


Traits Times (Singapore)

Shanghai Composite (Trung Quốc)
Quá trình hình thành và pháp triển ttck



1.2



1.2.1 Trên thế giới

Nhiều tài liệu cho rằng, buổi họp đầu tiên của TTCK xảy ra năm

1453 tại một lữ quán của gia đình ông Vanber tại Bruges ở Bỉ. Đến năm

1547, thành phố Bruges bị mất đI sư phồn vinh vi eo biển Even bị cát lấp,

tàu bè ra vào khó khăn, Ỏmậu dịch trưòngÕ ở đây bị sụp đổ và được rời

đến thị trấn Auvers (Bỉ)- một hảI cảng lớn của Bỉ hồi đó và ngày càng

phát triển . Từ đó lan rộng sang các nước khác như Anh, ý, Pháp, Đức,

Bắc Âu và ngày càng cảI tiến, thay đổi tuỳ theo điều kiện tại mỗi quốc

gia.

TTCK với những hoạt động gần như ngày nay có từ đầu thể kỷ thứ

17. Từ đó đến nay, TTCK thế giới đã trảI qua những bước thăng trầm:

- Thời kỳ huy hoàng nhất là vào những năm 1875 -1913: TTCK phát triển mạnh cùng với sự tăng trưởng của nền
kinh tế

- Đến ngày 29/10/1929- ngày mở đầu cuộc khủng hoảng TTCK

Nevv York đã làm cho TTCK New York và các TTCK Tây âu, Bắc âu và

Nhật Bản khủng khoảng.

- Sau chiến tranh thế giới thứ 2, TTCK phục hồi và phát triển

mạnh.

Cuộc khủng khoảng tài chính năm 1987 đã làm cho TTCK thế giới

suy sụp và kiệt quệ.

- Nhưng chỉ sau 2 năm TTCK thế giới lại đI vào ổn định , phát

triển và trở thành một định chế tàI chính không thể thiếu được trong đời

sống kinh tế của những quốc gia có nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị

trường.

- Trong những năm gần đây, TTCK đã trảI qua một cuộc cách mạng thực

sự do có các biến động lớn trong bối cảnh kinh tế, pháp lý hoặc kỹ thuật.
TTCK đã có nhiều cải cách để phát triển như cải cách các chế độ thuế,

thành lập một TTCK lhông chính thức, tạo ra các hình thức chứng

phiếu mới, Hiện đại hoá thị trường vay nợ của nhà nước trên thị

trường tín phiếu kho bạc, đổi mới kỹ thuật, tin học hoá mạnh trong

giao dịch

1.2.2 ở Việt Nam



Ngày 20/7/2000 khai trương Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố



Hồ Chí Minh



Ngày 28/7/2000, phiên giao dịch đầu tiên đã được thực hiện tại Trung



tâm giao dịch CK thành phố Hồ Chí Minh, và chỉ có mặt của 2 cổ phiêú



là LEE và CAP



Cuối năm 2007, Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí



Minh nâng cấp thành Sở giao dịch chứng khoán



Tính đến 31/7/2008, tại Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ chí



Minh đã có 158 loại cổ phiếu, 478 loại tráI phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư



của 34 công ty quản lý quỹ niêm yết giao dịch



Ngày 8/3/ 2005, trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội ra đời, thực



hiện đầu thầu chứng khoán và mua bán giao dịch những loại cổ phiếu,
tráI phiếu chưa được niêm yết tại sàn Hồ Chí Minh. Kế hoạch, đến năm



2010 sẽ phát triển thành thị trường OTC




Mở bài:
1. Ý nghĩa đề tài nghiên cứu:
  Từ thời xa xưa thị trường chứng khoán đã ra đời. Đầu tiên là những cổ phiếu nguyên thủy
thường là các vận đơn đường biển của các ngân hàng trên các đầu tàu buôn nước ngoài.
Không có việc trao đổi tiền giấy. Đơn vị quốc tế của nó là bạc rời thì vàng, những thổi bạc
được cắt thành từng miếng 1/8, để khi cần thì dùng mua cổ phiếu hàng hoá, chính điều này
giải thích vì sao chứng khoán được mua thành 1/8 ở Hoa Kỳ.
 Vài năm sau đó, cổ phiếu ngân hàng được chào bán để thiết lập một ngân hàng quốc gia
đầu tiên.Từ đó các công ty bảo hiểm cũng xuất hiện, và kiểu cách có kinh doanh có tổ chức
ra đời.Dù rằng không có một thị trường chứng khoán nào chính thức, nhưng cổ phiếu vẫn cư
được trao đổi.Dường như ngày càng nhiều cổ phiếu được bán ngay trên quầy hàng như bất
cứ sản phẩm nào khác.Đây chính là điểm khởi thủy của cái gọi là thị trường chứng khoán
ngoài quầy ngày nay.
 Ngày nay thị trường chứng khoá có ở khắp nơi. Thêm vào các thị trường chứng khoán ở
Hoa Kỳ, New York, còn có các thị trường chứng khoán địa phương ở khắp Hoa Kỳ, cũng như
ở London, Pari, Tokyo và các nơi khác.
 Chính vì thị trường chứng khoán đã được rộng mở và ngày càng tiên tiến hơn. Không ai
không khỏi ngạc nhiên khi biết đến thị trường chứng khoán rất dễ làm người ta trở thành tỷ
phú mà cũng nhanh chóng trắng tay. Chính vì sự tò mò muốn biết thị trường chứng khoán
ra sao nên em xin chọn đề tài “ toàn cảnh thị trường chứng khoán” bởi vì thị trường chứng
khoán rất đa dạng, rất phức tạp cho nên em chọn đề tài này.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
 Là tìm hiểu toàn cảnh thị trường chứng khoán ở Việt Nam.

3. Mục đích nghiên cứu, nghiên cứu để làm gì.
  Em chọn đề tài “ toàn cảnh thị trường chứng khoán” mục đích là muốn biết được:
  Thị trường chứng khoán hoạt động ra sao?.
  Lợi và haị khi đầu tư.
  Chứng khoán là gì ?.v.v
  Trong thời kì nhà nước mở cử hiện nay, thì các nước đều tạo mối quan hệ tốt với nhau
mục đích là trao đổi mua bán, tạo mối quan hệ với các nước trên thế giới. Chính vì hoà nhập
vào thế giới cho nên chúng ta cũng cập nhật được thông tin,mới nhất từ thế giới. Cho nên
vào năm 1997chứng khoán lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam.Vì nó còn mới cho nên không
tránh khỏi nhiều người tò mò muốn tìm hiểu đến nó.
4. Phương pháp sử dụng trong nghiên cứu.
 Duy vật biện chứng
Duy vật lịch sử.
5. Bố cục:
  Chia làm ba phần:
  Phần 1: Thị trường chứng khoán là gì?.
  Phần 2: Thị trường chứng khoán vận hành như thế nào?
  Phần 3: Làm gì khi tham gia thị trường chứng khoán?.

More Related Content

Viewers also liked

Familia (2)
Familia (2)Familia (2)
Familia (2)vale4482
 
153 cau hoi trac nghiem ktvm
153 cau hoi trac nghiem ktvm153 cau hoi trac nghiem ktvm
153 cau hoi trac nghiem ktvmNguyenTanSangTG
 
A day with grammar
A day with grammarA day with grammar
A day with grammarbijunath123
 
WHEN MASTER SPEAKS...11th september, 1893,chicago
WHEN MASTER SPEAKS...11th september, 1893,chicagoWHEN MASTER SPEAKS...11th september, 1893,chicago
WHEN MASTER SPEAKS...11th september, 1893,chicagobijunath123
 
El aprendizaje visual
El aprendizaje visualEl aprendizaje visual
El aprendizaje visualLaura A GD
 
RUDRA AQUACASA...Live Life Once Again..
RUDRA AQUACASA...Live Life Once Again..RUDRA AQUACASA...Live Life Once Again..
RUDRA AQUACASA...Live Life Once Again..bijunath123
 
Roles of hindu women
Roles of hindu womenRoles of hindu women
Roles of hindu womenbijunath123
 
1612_Foods Plan A December Newsletter
1612_Foods Plan A December Newsletter1612_Foods Plan A December Newsletter
1612_Foods Plan A December NewsletterRay McCreadie
 
Tim Hieu Thi Truong Chung Khoan
Tim Hieu Thi Truong Chung KhoanTim Hieu Thi Truong Chung Khoan
Tim Hieu Thi Truong Chung Khoanguest3c41775
 

Viewers also liked (10)

Familia (2)
Familia (2)Familia (2)
Familia (2)
 
153 cau hoi trac nghiem ktvm
153 cau hoi trac nghiem ktvm153 cau hoi trac nghiem ktvm
153 cau hoi trac nghiem ktvm
 
A day with grammar
A day with grammarA day with grammar
A day with grammar
 
WHEN MASTER SPEAKS...11th september, 1893,chicago
WHEN MASTER SPEAKS...11th september, 1893,chicagoWHEN MASTER SPEAKS...11th september, 1893,chicago
WHEN MASTER SPEAKS...11th september, 1893,chicago
 
El aprendizaje visual
El aprendizaje visualEl aprendizaje visual
El aprendizaje visual
 
RUDRA AQUACASA...Live Life Once Again..
RUDRA AQUACASA...Live Life Once Again..RUDRA AQUACASA...Live Life Once Again..
RUDRA AQUACASA...Live Life Once Again..
 
Pollution
PollutionPollution
Pollution
 
Roles of hindu women
Roles of hindu womenRoles of hindu women
Roles of hindu women
 
1612_Foods Plan A December Newsletter
1612_Foods Plan A December Newsletter1612_Foods Plan A December Newsletter
1612_Foods Plan A December Newsletter
 
Tim Hieu Thi Truong Chung Khoan
Tim Hieu Thi Truong Chung KhoanTim Hieu Thi Truong Chung Khoan
Tim Hieu Thi Truong Chung Khoan
 

Thị trường chứng khoán luân đôn

  • 1. Thị trường Chứng khoán Luân Đôn Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Sàn giao dịch chứng khoán London nằm tại London, Anh. Được thành lập từ 1801, đây là một trong những cơ sở giao dịch chứng khoán lâu đời nhất thế giới, với nhiều công ty trong nước Anh và ở nước ngòai niêm yết.Tính đến tháng 6 năm 2011, Sàn Giao dịch đã có một vốn hóa thị trường USD 3,7495 nghìn tỷ, làm cho nó thị trường chứng khoán lớn thứ tư trên thế giới (và là lớn nhất ở châu âu) Trụ sở của London Stock Exchange hiện đặt tại số 10, quảng trường Paternoster gần nhà thờ St Paul, trung tâm của thành phố London Mục lục [ẩn] 1 Lịch sử o 1.1 Quán cà phê o 1.2 Sàn giao dịch Hoàng gia o 1.3 Bộ luật đầu tiên  1.3.1 Thị trường chứng khoán trước chiến tranh thế giới  1.3.2 Chiến tranh thế giới thứ nhất  1.3.3 Sau chiến tranh  1.3.4 "Big Bang" 2 Các hoạt động o 2.1 Thị trường sơ cấp [sửa]Lịch sử Thông tin trong bài (hay đoạn) này không thể kiểm chứng được do không được chú giải từ bất kỳ nguồn tham khảo nào. Xin bạn hãy cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn uy tín. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì hãy chuyển nguồn tham khảo từ phiên bản đó cho bài này. Bài hoặc đoạn này cần được wiki hóa theo các quy cách định dạng và văn phong Wikipedia. Xin hãy giúp phát triển bài này bằng cách liên kết trong đến các mục từ thích hợp khác. [sửa]Quán cà phê Sàn Giao dịch Hoàng gia đã được thành lập bởi Thomas Gresham trên mô hình của Antwerp Bourse, được xem như là một thị trường chứng khoán. Nó đã được thành lập bởi Nử hoàng Elizabeth đệ nhất vào năm 1571. Trong thế kỷ 17, các nhà môi giới chứng khoán không được phép tham gia vào sàn giao dịch Hoàng gia do cách cư xử thô lỗ của họ. Họ phải hoạt động trong những cơ sở khác ở gần đó, trong đó đặc biệt là quán cà
  • 2. phê Jonathan. Tại quán cà phê đó , một nhà môi giới tên là John Casting bắt đầu niêm yết giá của một vài mặt hàng, tỷ giá hối đoái và các điều khoản quan trọng về than đá, muối và giấy trong 1698. Ban đầu, đây không phải là danh sách được xuất bản hàng ngày mà chỉ có vài ngày trong tuần. Sau đó bản danh sách này và các hoạt động giao dịch được chuyển đến quán cà phê Garraway. Những cuộc đấu giá công cộng trong lúc này đã được thực hiện trong suốt khoản thời gian mà ngọn nến cháy và kết thúc khi ngọn nến tàn ,việc này còn được gọi là phiên đấu giá "dựa trên chiều dài của ngọn nến" . Khi cổ phiếu tăng giá, cùng với các công ty mới tham gia để huy động vốn, hội đồng hoàng gia cũng đặt thêm một số tiền. Đây là những dấu hiệu sớm nhất của việc tổ chức kinh doanh trong thị trường chứng khoán tại London. [sửa]Sàn giao dịch Hoàng gia Sau khi sàn giao dịch Gresham bị phá hủy trong trận hỏa hoạn ở London,sau đó nó được xây dựng lại và tái thành lập vào năm 1669. Đây là một bước ngoặc trong việc ra khỏi phạm vi các quán cà phê và là bước tiến đến mô hình của thị trường chứng khoán hiện đại. Sàn Giao dịch Hoàng gia không chỉ dành cho nhà môi giới mà còn cho các thương nhân và hàng hóa. Đây là sự ra đời của thị trường chứng khoán có quy định, việc này đã làm nảy sinh vấn đề là sự hình thành của những công ty môi giới không có giấy phép. Để điều chỉnh vấn đề này, Quốc hội đã thực hiện một số hành động trong năm 1697 đặt ra những khoản phạt nặng, cả về tài chính và pháp lí đối với những nhà môi giới không có giấy phép. Nó đã thiết lập ra một con số cố định các nhà môi giới (100), mà sau này tăng lên khi thương mại phát triển. Sự cố định này đã dẫn đến việc phát sinh một số vấn đề, một trong số đó là thương nhân đã bắt đầu rời khỏi Sàn Giao dịch Hoàng gia, tự nguyện hoặc bị trục xuất và bắt đầu giao dịch trên đường phố London. Trên đường nơi họ giao dịch còn được biết đến như “Phố Giao dịch và trao đổi” đây là nơi thích hợp vì được đặt gần Ngân hàng Anh. Quốc hội đã cố gắng để điều chỉnh lại và ra lệnh cấm các thương nhân không hợp lệ giao dịch trên những con phố. Các công ty đã trở nên kiệt quệ như “bong bóng” khi các công ty liên tục mọc lên và phá sản một cách nhanh chóng, vì vậy họ đã thuyết phục Quốc hội thông qua một điều khoản ngăn chặn các công ty không phù hợp hình thành. Sau cuộc chiến tranh bảy năm (1756-1763), việc giao dịch tại quán cà phê Jonathan lại bùng nổ một lần nữa. Trong năm 1773, Jonathan, cùng với 150 nhà môi giới khác, thành lập một câu lạc bộ và mở một "sàn giao dịch chứng khoán" mới và chính thức hơn trong phố Sweeting. Điều này đã đạt ra một khoản phí tham gia, sau khi nộp khoản phí này thương nhân có thể vào phòng chứng khoán và giao dịch chứng khoán.Tuy nhiên đây không phải là vị trí duy nhất để giao dịch, các cuộc giao dịch cũng diễn ra trong các gian phòng lớn của Ngân hàng Anh. Gian lận, lừa gạt cũng hoành hành trong những thời gian này và để ngăn chặn các cuộc giao dịch đó, đã có đề xuất là những người sử dụn phòng chứng khoán trả thêm lệ phí gia tăng.Điều này không được hoan nghênh và cuối cùng, giải pháp được đặt ra dưới hình thức lệ phí hàng năm và nó được chuyển đến Sàn Giao dịch vào phòng đăng ký chứng khoán.
  • 3. Phòng Đăng ký được thành lập vào năm 1801 là nơi được tuân theo quy định đầu tiên ở London, nhưng sự chuyển đổi không được hoan nghênh tất cả các bên. Vào ngày đầu tiên của phiên giao dịch,những người không phải là thành viên đã bị trục xuất bởi một nhân viên cảnh sát. Mặc dù sự lộn xộn này, một tòa nhà mới và lớn hơn đã được lên kế hoạch, tại hội đồng Capel. William Hammond đặt viên đá đầu tiên cho tòa nhà mới này vào ngày 18 tháng năm. Nó được hoàn thành vào ngày 30 tháng 12 khi dòng chữ "giao dịch chứng khoán" được khắc trên lối vào. [sửa]Bộ luật đầu tiên Trong những năm hoạt động đầu tiên của thị trường, nhiều trường hợp đã làm xuất hiện rõ vấn đề là các quy định hay những điều luật cơ chủ yếu bị thiếu trong hội đồng thương mại Capel.Vào tháng 2 năm 1812, Uỷ ban hành chính đã tiếp thu các kiến nghị được đưa ra, mà sau này trở thành nền tảng của bộ luật đầu tiên được hệ thống hóa của thị trường giao dịch. Mặc dù văn bản này không được hoàn thiện, cách giải quyết vấn đề khá khuôn mẫu,nhưng trên thực tế,nó cũng khá toàn diện. Cùng với những mệnh lệnh mới của chính phủ và sự gia tăng số lượng giao dịch tại đây, Thị trường chứng khoán đã dần dần trở thành một bộ phận trong nền kinh tế của thành phố. Mặc dù những lời chỉ trích liên tục từ báo chí và công chúng, chính phủ đã sử dụng tcác tổ chức chứng khoán để gia tặng một số lượng lớn tiền cho các cuộc chiến tranh chống lại Napoleon. Thị trường trong và ngoài nước Sau chiến tranh và đối mặt sự bùng nổ của nền kinh tế thế giới, nước ngoài cho các thị trường tiềm năng như Brazil, Peru và Chile vay. Đặc biệt, thị trường nước ngoài cũng cho phép các nhà buôn và thương gia tham gia vào và Sàn giao dịch Hoàng gia đã chủ trì tất cả các phiên giao dịch có nước ngoài tham gia. Sự gia tăng ngày càng lớn của việc kinh doanh ở nước ngoài dẫn đến việc kinh doanh chứng khoán nước ngoài cũng phải được cho phép trong thị trường chứng khoán trong nước. Giống như London nơi trở nên khá hứng thú với sự phát triển của thương mại quốc tế, vương quốc Anh cũng được hưởng lợi từ sự bùng nổ kinh tế. Hai thành phố khác đã đặc biệt thể hiện sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh doanh, cụ thể là Liverpool và Manchester. Do đó, trong năm 1836, cả hai thị trường chứng khoán Manchester và Liverpool được mở ra. Đây cũng là khoản thời gian mà môi giới chứng khoán được công nhận là một nghề kinh doanh thực sự và thu hút nhiều doanh nhân tham gia. Tuy nhiên, khi bước vào thời kì suy thoái, và vào năm 1835 "cơn hoảng loạn Tây Ban Nha " chạm đến thị trường, kéo dài đến 1 đến 2 năm sau đó. Một số cổ phiếu tăng mạnh ở mức 10%, 20% và 30%, một tuần. [sửa]Thị trường chứng khoán trước chiến tranh thế giới Tháng 6 năm 1853, cả hai bên tham gia giao dịch và các nhà môi giới đã trở nên rất nhiều nên chiếm nhiều diện tích, nên giờ đây thị trường chứng khoán trở nên đông đúc một cách bất tiện và kế hoạch mở rộng đã được đặt ra.Sàn giao dịch đã được mở rộng phía tây, phía đông và phía bắc, sau đó đã có quyết định Sàn Giao dịch cần một cơ sở hoàn toàn mới. Thomas Allason được bổ nhiệm làm kiến trúc sư chính, và tháng 3
  • 4. năm 1854, một tòa nhà mới lấy cảm hứng từ The Great Exhibition đã được ra đời. Đây là một cải tiến lớn đối với cả môi trường và không gian xung quanh, với hai tầng. Vào giữa những năm 1800, điện thoại, mã băng và điện báo đã được phát minh. Những công nghệ mới đã trở thành một cuộc cách mạng trong giao dịch ở thị trường chứng khoán. Mặc dù đã có liên kết giữa tất cả các thành phố lớn trong nước trong những năm 1840, các nhà quản lý tại Sàn Giao dịch ban đầu không bị thuyết phục bởi các lợi ích của điện thoại và nó không được áp dụng trước năm 1878. Hầu hết những lo ngại đều gắn liền với cậu hỏi liệu việc kinh doanh trở nên thu hút hơn hoặc bị thất bại khi dùng các thiết bị mới. Người quản lý cuối cùng đã đầu hàng ý kiến ban đầu của họ và điện thoại nhanh chóng trở thành một trong những công cụ môi giới chứng khoán quan trọng nhất. [sửa]Chiến tranh thế giới thứ nhất Là trung tâm tài chính của thế giới, cả thành phố và các khu giao dịch chứng khoán chịu ảnh hưởng nặng nề bởi sự bùng nổ của Thế chiến thứ nhất vào năm 1914. Lúc đầu, giá tăng do nỗi sợ hãi đang gia tăng rằng các khoản tiền gửi đang bị rút lại và các ngân hàng nước ngoài đang có nhu cầu vay hoặc nâng cao lãi suất.Đã có quyết định đóng cửa Sàn Giao dịch để xoa dịu tình hình và mở rộng ngân hàng August Holiday để ngăn chặn việc rút tiền hàng loạt từ các ngân hàng,nó được vội vã thông qua bởi cả hai nơi Ủy ban và Nghị viện. Sàn Giao dịch chứng khoán đã được đóng cửa từ cuối tháng Bảy cho đến năm sau, và một lần nữa các giao dịch đường phố quay lại cũng như xuất hiện một “ hệ thống thách thức “ Sở Giao dịch đã được mở cửa trở lại vào ngày 4 tháng 1 năm 1915 dưới sự một sự hạn chế , như tất cả các giao dịch đều phải bằng tiền mặt .Do những hạn chế và khó khăn trong hoạt động kinh doanh gây ra bởi chiến tranh, hàng ngàn thành viên đã rời khỏi sàn giao dịch giữa năm 1914 – 18 .Khi hòa bình cuối cùng cũng trở lại vào tháng nười một năm 1018 , tâm trạng sau chiến tranh trên sàn giao dịch cũng khá căng thẳng. Vào năm 1923 , thị trường chứng khoán đã được nhận huy chương riêng của nó (coat of arms) với khẩu hiệu “Dictum Meum Pactum”, Lời nói của tôi là sự cam kết của tôi Chiến tranh thế giới thứ hai Năm 1937, kinh nghiệm từ Chiến tranh thế giới thứ nhất đã làm cho các quan chức tại Sàn giao dịch lập những kế hoạch để xử lý các tình huống khi chiến tranh xảy ra. Một trong những mối quan tâm chính là các cuộc không kích và đánh bom trong phạm vi của sàn giao dịch, và có một đề xuất là di dời đến Denham. Tuy nhiên điều này đã không được diễn ra. Vào ngày đầu của tháng chín năm 1939, Sàn Giao dịch đã bị đóng cửa "cho tới khi có thông báo tiếp theo" và hai ngày sau đó, tuyên bố chiến tranh đã được ban ra. Không giống như từ cuộc chiến tranh trước, Sở Giao dịch mở cửa lại sáu ngày sau đó, vào ngày 07 tháng 9. Khi chiến tranh leo thang vào năm thứ hai, những mối quan tâm cho cuộc không kích lớn hơn bao giờ hết. Cuối cùng, vào đêm 29 tháng 12, 1940, một trong những vụ cháy lớn nhất trong lịch sử của London đã diễn ra. Sàn giao dịch đã bị đánh bởi 1 quả bom, may mắn thay đã được dập tắt nhanh chóng. Kinh doanh trực tiếp trên sàn đã giảm đáng kể và hầu hết các cuộc giao dịch đã được thực hiện qua điện thoại để giảm các thiệt hại.
  • 5. Sở Giao dịch trên thực tế chỉ đóng cửa trong một ngày trong cuộc chiến , vào năm 1945 do thiệt hại từ một quả tên lửa V2, lúc đó giao dịch vẫn được tiếp tục trong tầng hầm ở nhà. [sửa]Sau chiến tranh Sau khi một số thời kỳ hỗn loạn, thị trường chứng khoán đã có những năm khởi sắc vào cuối những năm 1950 và công việc kinh doanh đã thực sự bùng nổ. Điều này đã đẩy các quan chức để tìm một địa điểm phù hợp hơn cho trụ sở mới của mình. Công việc trên Stock Exchange Tower được bắt đầu vào năm 1967.Trụ sở mới của sàn giao dịch cao 321 feet, có 26 tầng với Hội đồng Quản trị ở tầng cao nhất, và tầng giữa là nơi cho các công ty trực thuộc hoạt động. Nữ hoàng Elizabeth II đã chính thức khánh thành tòa nhà vào ngày 08 tháng 11 1972 và công trình xây dựng hoàn thành đã trở thành 1 cột mốc cho sự phát triển của thành phố, với sàn giao dịch rộng 23.000 ft vuông của nó. 1973 là năm của những thay đổi cho Sàn Giao dịch chứng khoán. Thứ nhất,lệnh cấm kinh doanh đã được bãi bỏ. Một văn bản của Ủy ban Tư bản đề nghị cho phép cả phụ nữ và những người nước ngoài vào. Và thứ hai, tháng ba, Sàn Giao dịch Chứng khoán London (chính thức) hợp nhất với 11 thị trường giao dịch khu vực Anh và Ailen. Việc mở rộng này đã dẫn đến việc thành lập một chức vụ mới là Giám đốc điều hành, sau quá trình tìm kiếm rộng rãi,vị trí này đã được trao cho Robert Fell. Các thay đổi của Chính phủ cũng tiếp tục vào năm 1991, khi Hội đồng quản trị của sàn giao dịch chứng khoán được thay thế bằng một Hội đồng quản trị được điều ra từ những thành viên của sàn giao dịch, điều hành và cơ sở người dùng. Điều này cũng đánh dấu sàn giao dịch chứng khoán cũ nay đã đổi tên thành "Sàn Giao dịch Chứng khoán Luân Đôn '. Chỉ số FTSE 100 (Footsie 100) đã được đưa ra bởi tờ Financial Times và người cộng tác giao dịch chứng khoán trong tháng 2 năm 1984.Và nó đã trở thành một trong các chỉ số quan trọng nhất của tất cả các và có khả năng theo dõi sự lên xuống của 100 công ty hàng đầu được liệt kê trên sàn giao dịch. [sửa]"Big Bang" Sự kiện lớn nhất xảy ra vào năm 1980 chính là việc bãi bỏ một số quy định của thị trường tài chính ở Anh vào năm 1986. Cụm từ Big Bang được đặt ra để mô tả các biện pháp như việc bãi bỏ các loại phí hoa hồng cố định và sự phân biệt giữa những nàh đầu cơ chứng khoán và nhà môi giới chứng khoán trên sàn chứng khoán London, cũng như thay đổi từ giao dịch bằng lời nói bằng giao dịch qua màn hình điện tử. Trong năm 1995 thị trường chứng khoán thực hiện dự án thị trường đầu tư thay thế (Alternative Investment Market), AIM, cho phép các công ty phát triển mở rộng ra thị trường quốc tế. Hai năm sau, Dịch vụ Thương mại điện tử (Electronic Trading Service) viết tắt (SETS) đã được đưa ra, nâng cao tốc độ và hiệu quả cho thị trường. Sau này, các dịch vụ CREST cũng đã được đưa ra. Năm của thiên niên kỷ mới, năm 2000, các cổ đông đã bỏ phiếu để chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn : London Stock Exchange plc. LSE cũng chuyển giao vai trò của nó từ danh sách những cộng ty cổ phần ở anh trở thành các cơ quan dịch vụ tài chính (FSA-UKLA)
  • 6. EDX London, một công ty đa quốc gia mới , được thành lập trong năm 2003 có mối quan hệ đối tác với Tập đoàn OM. Sàn Giao dịch cũng đã thu nhận cộng ty Proquote, một nhà cung cấp các dữ liệu thị trường và các hệ thống kinh doanh. Tòa nhà Stock Exchange Tower đã trở thành thừa thãi với sự cải tiến của Big Bang, mà nó đã bỏ đi nhiều hoạt động trực tiếp trên sàn giao dịch chứng khoán vì nó đã làm gia tăng việc sử dụng các hệ thống máy tính cho phép giao dịch gián tiếp được ưu tiên hơn giao dịch trực tiếp. Như vậy, trong năm 2004, sàn giao dịch đã di chuyển đến một trụ sở mới ở quảng trường Paternoster, gần Nhà thờ Thánh Paul. Trong năm 2007 Sàn Giao dịch Chứng khoán London sáp nhập với Borsa Italiana, tạo thành Tập đoàn Giao dịch Chứng khoán London (LSEG). Trụ sở chính của tập đoàn đặt ở quảng trường Paternoster . [sửa]Các hoạt động [sửa]Thị trường sơ cấp Những nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ các công ty trên toàn thế giới tham gia thị trường vốn của London để huy động nguồn vốn. LSE cho phép công ty huy động tiền, đưa ra lí lịch của họ và có được một số thông tin về giá trị thị trường thông qua nhiều con đường, vì vậy có thể theo dõi thông tin các công ty qua toàn bộ tiến trình IPO. Sàn giao dịch mở thêm một số thị trường cho từng danh mục, tạo cơ hội cho các công ty có qui mô khác nhau liệt kê ra. Công ty quốc tế có thể đưa ra một số sản phẩm tại London bao gồm cổ phiếu, chứng chỉ lưu kí và nợ, cung cấp những cách thức khác nhau và các mức chi phí trong việc huy động vốn. Năm 2004 tập đoàn đã mở một văn phòng ở Hồng Kông và đã thu hút hơn 200 công ty từ khu vực châu Á – Thái bình. Đối với các công ty lớn có thể được đưa vào danh sách ở thị trường cao cấp . Điều này hoạt động như một hình thức trong tình trạng tương đồng khi mà UKLA cũng như các tiêu chí của thị trường chứng khoán London được đáp ứng. IPO lớn nhất (Phát hành cổ phiếu lần đầu)trên thị trường chứng khoán được kết thúc trong tháng năm 2011 bởi cộng ty đa quốc gia Glencore plc. Công ty huy động được $10bn vào nguồn vốn, làm cho nó trở thành một trong những lần IPO lớn nhất. Trong điều khoản về chứng khoán của doanh nghiệp nhỏ hơn trong thị trường đầu tư thay thế (AIM). Đối với công ty quốc tế bên ngoài của EU,nó áp dụng chứng chỉ lưu ký (DR) như một cách để lên sàn và huy động vốn. Những lợi ích trong việc tham gia một trong những thị trường chứng khoán bao gồm: -Cung cấp khả năng truy cập vào vốn cho sự tăng trưởng và hoạt động tài chính cho những phát triển sau này -Cả mở rộng phạm vi của cổ đông và tạo ra một thị trường cho cổ phiếu của công ty -Dựa vào các giá trị trên thị trường chứng khoán đặt ra mục tiêu kinh doanh cho công ty
  • 7. Có hai thị trường chuyên môn: Thị trường chứng khoán chuyên nghiệp thị trường này tạo điều kiện tăng vốn thông qua phát hành các cộng cụ chứng khoán nợ đặc biệt hoặc các chứng chỉ lưu kí (DRs) cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp. Thị trường hoạt động dưới sự quản lí của Recognised Investment Exchange ( 1 công ty chiu trách nhiệm quản lí giao dịch chứng khoán ở london), và vào tháng Bảy ,2011 nó có 32 DRs, 108 Trái phiếu châu âu và hơn 350 tín phiếu trung hạn. Thị trường gây quỹ chuyên môn là thị trường giao dịch chứng khoán dành riêng cho thị trường London, được thiết kế để chấp nhận các quĩ mua xe phức tạp , các mô hình quản lý và chứng khoán. Nó thích hợp chỉ cho các tổ chức , những chuyên gia và những nàh đầu tư có vốn hiểu biết cao.Thị trường gây quĩ đặc biệt là một thị trường theo qui chế của EU và vì thế chứng khoán được phát hành trong thị trường phải thích hợp cho hầu hết yêu cầu của nhà đầu tư tạo ra môi trường phù hợp cho nàh phát hành vào thị trường Thị trường chứng khoán một số nước phát triển Posted on November 25, 2008 Chỉ số S&P 500 (Mỹ) Một chỉ số bao gồm 500 loại cổ phiếu được lựa chọn từ 500 công ty có mứcvốn hóa thị trường lớn nhất của Mỹ. Chỉ số S&P 500 được thiết kếđể trở thành một công cụ hàng đầu của thị trường chứng khoán Mỹ và cóý nghĩa phản ánh những đặc điểm rủi ro/lợi nhuận của các công ty hàng đầu. Các công ty được lựa chọn đểđưa vào chỉ sốđược lựa chọn ra bởi Ủy ban Chỉ số S&P, một nhóm các nhà phân tích và nhà kinh tế của Standard & Poor. Chỉ số S&P 500 là chỉ sốđo giá trị thị trường – giá trị của mỗi cổ phần trong chỉ số cân xứng với giá trị thị trường của nó. Chỉ số S&P 500 là một trong những chuẩn đánh giá thông thường nhất dành cho thị trường chứng khoán Mỹ. Chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jonesđã từng là chỉ số nổi tiếng nhất cho các cổ phiếu ở Mỹ, nhưng vì nó chỉ chứa 30 công ty, vì vậy hầu hết mọi người tin rằng S&P 500 sẽ phản ánh thị trường tốt hơn vàđầy đủ hơn. Trên thực tế, nhiều người coi nó làđịnh nghĩa của thị trường.
  • 8. Những chỉ số phổ biến khác của Standard & Poor là S&P 600, một chỉ số của những công ty có giá trị vốn hóa thị trường nhỏ từ 300 triệu – 2 tỉđôla, và S&P 400, một chỉ số của các công ty có mức vốn hóa thị trường trung bình từ 2 – 10 tỉđôla. Một số các sản phẩm dựa trên chỉ số S&P 500 có sẵn trên thị trường dành cho các nhà đầu tư, bao gồm các quỹ chỉ số và ETFs. Tuy nhiên, việc cácnhà đầu tư cá nhân mua được chỉ số là rất khó, bởi vìđể làm điều này buộc phải mua cả 500 cổ phiếu của các công ty khác nhau. (Nguồn: Saga) Chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones (Mỹ) Chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones hay Chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones (tiếng Anh: Dow Jones Industrial Average, viết tắt DJIA, còn gọi Dow 30, Dow Jones công nghiệp, hoặc Dow Jones; phát âm như "Đao Giôn"; NYSE: DJI) là một trong vài chỉ số thị trường chứng khoán được tạo ra bởi Charles Dow, chủ báo The Wall Street Journalvà đồng sáng lập viên của công ty Dow Jones & Company vào thế kỷ 19. Dow tập hợp chỉ số này đểđánh giá khu vực công nghiệp của thị trường chứng khoán tại Hoa Kỳ. Nó là chỉ số Mỹ lâu đời thứ hai, chỉ sau Chỉ số Trung bình Vận tải Dow Jones, cũng do Dow tạo ra. Chỉ số tính giá trị của 30 công ty cổ phần lớn nhất và có nhiều cổđông nhất trong nước Mỹ. Tuy tên có phần "công nghiệp", ít trong những thành phần ngày nay còn có liên quan đến công nghiệp nặng. Chỉ số này được tính theobình quân gia quyền giá (price- weighted average). Để chỉnh lại chỉ số sau các việc tách cổ phần và các sửa đổi khác, chỉ số sử dụng bình quân gia quyền(weighted average), thay vì tính số bình quân các giá chứng khoán thành phần. Tổng của các giá thành phần được chia bằng ước số thay đổi lúc nào mà một chứng khoán thành phần được tách hoặc trả cổ tức bằng cổ phần, để tính ra giá trị của chỉ số.Tại vì hiện nay ước sốít hơn một, giá trị của chỉ số cao hơn tổng các giá thành phần. (Nguồn: Wikipedia) NASDAQ (Mỹ) NASDAQ là chữ viết tắt của cụm từ National Association of Securities Dealers Automated Quotations system, là sàn giao dịch chứng khoán điện tử của Mỹ, có giá trị vốn hoá thị trường đứng thứ 3 thế giới (sau NYSE và Tokyo stock Exchange). Điểm khác biệt quan trọng giữa NASDAQ với các sàn giao dịch chứng khoán lớn khác làở chỗ nó là một sàn giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC).
  • 9. Nasdaq được thành lập năm 1971 bởi Hiệp hội những người buôn bán chứng khoán Quốc gia (NASD), và hiện đang được điều hành bởi Nasdaq Stock Market, Inc. NASDAQ là sàn giao dịch chứng khoán điện tử lớn nhất nước Mỹ, với khoảng 3,200 công ty niêm yết và số lượng cổ phiếu giao dịch bình quân nhiều hơn bất kỳ sàn giao dịch khác ở Mỹ, kể cả NYSE Khi bắt đầu mở cửa giao dịch vào ngày 8/2/1971, NASDAQ là sàn thị trường chứng khoán điện tử tiên phong trên thế giới.Lúc đầu, nó chỉđơn thuần là hệ thống bản điện tử niêm yết giá chứ chưa thực sự kết nối giữa người mua với người bán. Tác dụng quan trọng nhất lúc đó là nó giúp làm giảm mức chênh lệch giữa giámua(bid price) và giá bán(ask price) cổ phiếu, gây bất lợi cho những tay môi giới chứng khoán thường kiếm bộn nhờ chênh lệch này, song lại làm thị trường chứng khoán hoạt động nhộn nhịp hơn. Vài năm sau, NASDAQ tiến gần hơn đến một sàn giao dịch chứng khoán theođúng nghĩa của nó, khi đưa vào hoạt động hệ thống báo cáo và giao dịch chứng khoán tựđộng. Cho đến năm 1987, hầu hết các giao dịch được tiến hành qua điện thoại, song trong suốt cuộc khủng hoảng của thị trường chứng khoán năm 1987, những người tạo lập thị trường hầu như không trả lời điện thoại.Đểđối phó với vấn đề này, Hệ thống thực thi các lệnh nhỏ (SOES) đã ra đời, cung cấp cho những người mua bán chứng khoán một phương thức giao dịch điện tử hoàn toàn mới, vàđểđảm bảo những giao dịch nhỏ không bị bỏ qua. (Nguồn: Saga) FTSE 100 (Anh) Chỉ số FTSE 100 (đọc là footsie) là chỉ số cố phiếu của 100 công ty có giá trị vốn hóa lớn nhất được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Luân Đôn (LSE), được bắt đầu từ ngày mùng 3 tháng 1 năm 1984, với điểm sàn là 1000. Các công ty thành phần phải đáp ứng các yêu cầu của FTSE Group, bao gồm việc đã niêm yết toàn diện trên sàn LSE với giáđược tính theo đồng bảng Anh hoặc đồng Euro trên SETS (Stock Exchange Electronic Trading Service), vượt qua các kiểm tra về quốc tịch, mức độ biến động giá tự do (free float) và tính thanh khoản. Giao dịch được tiến hành từ 8:00 đến 16:29 (khi phiên đấu giá cuối cùng bắt đầu), và giáđóng cửa được lấy lúc 16:35 (mặc dù hầu hết giáđóng cửa của FTSE 100 được lấy lúc 16:36). Giá trị cao nhất của chỉ số FTSE 100 tính đến thời điểm này là 6950,6điểm, đạt được ngày 30 tháng 12 năm 1999. Chỉ sốđược xem như phong vũ biểu của nền kinh tế Anh và là chỉ số cổ phiếu hàng đầu ở châu Âu. Nóđược duy trì bởi FTSE Group, một công ty độc lập mà ban đầu là kết quả của sự liên doanh giữa Financial Times và LSE (FTSE chính là viết tắt của Financial
  • 10. Times Stock Exchange). Theo website của FTSE Group, 100 công ty FTSE 100 chiếm đến 80% thị trường chứng khoán ở Anh. Bên cạnh FTSE 100 Index, tập đoàn FTSE giới thiệu tiếp FTSE 250 Index (chỉ số của 250 công ty lớn tiếp theo), FTSE Fledgling, the FTSE 350 Index(tổng hợp của FTSE 100 và FTSE 250), FTSE SmallCap. Cuối cùng là FTSE All-Share, là chỉ số tổng hợp của cả 3 chỉ số FTSE 100 Index, FTSE 250 Index, và FTSE SmallCap. Thành phần của chỉ số này được thay đổi từng quý.Những công ty lớn nhất trong FTSE 250 sẽđược đề cử nếu giá trị vốn hóa thị trường của chúng lọt vào top 90 của FTSE 100. Năm 2006, ngưỡng đểđược đề cử là 2,9 tỷ bảng Anh. Đến ngày 29 tháng 9 năm 2006, 6 công ty thành phần lớn nhất của chỉ số FTSE 100 là BP, Royal Dutch Shell, HSBC Holdings, the Vodafone Group, the Royal Bank of Scotland Group and GlaxoSmithKline đều có giá trị trên 60 tỷ bảng. (Nguồn: Saga) DAX (Đức) DAX 30 ((Deutscher Aktien IndeX 30, tên khác Deutscher Aktien-Index 30) là chỉ số chứng khoán quan trọng nhất của Sở giao dịch chứng khoán Frankfurt.Chỉ số này được tính dựa trên 30 loại cổ phiếu Blue-Chip được giao dịch ở Sở giao dịch chứng khoán Frankfurt. CAC 40 (Pháp) Taiwan Weighted (Đài Loan) Nikkei 225 (Nhật) Chỉ số Nikkei 225 là chỉ số giá bình quân gia quyền của 225 loại cổphiếu(tính bằng đồng Yên Nhật) lớn nhất tại Tokyo Hang Sheng (Hongkong) KOSPI Coposite (Hàn Quốc) Traits Times (Singapore) Shanghai Composite (Trung Quốc)
  • 11. Quá trình hình thành và pháp triển ttck 1.2 1.2.1 Trên thế giới Nhiều tài liệu cho rằng, buổi họp đầu tiên của TTCK xảy ra năm 1453 tại một lữ quán của gia đình ông Vanber tại Bruges ở Bỉ. Đến năm 1547, thành phố Bruges bị mất đI sư phồn vinh vi eo biển Even bị cát lấp, tàu bè ra vào khó khăn, Ỏmậu dịch trưòngÕ ở đây bị sụp đổ và được rời đến thị trấn Auvers (Bỉ)- một hảI cảng lớn của Bỉ hồi đó và ngày càng phát triển . Từ đó lan rộng sang các nước khác như Anh, ý, Pháp, Đức, Bắc Âu và ngày càng cảI tiến, thay đổi tuỳ theo điều kiện tại mỗi quốc gia. TTCK với những hoạt động gần như ngày nay có từ đầu thể kỷ thứ 17. Từ đó đến nay, TTCK thế giới đã trảI qua những bước thăng trầm: - Thời kỳ huy hoàng nhất là vào những năm 1875 -1913: TTCK phát triển mạnh cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế - Đến ngày 29/10/1929- ngày mở đầu cuộc khủng hoảng TTCK Nevv York đã làm cho TTCK New York và các TTCK Tây âu, Bắc âu và Nhật Bản khủng khoảng. - Sau chiến tranh thế giới thứ 2, TTCK phục hồi và phát triển mạnh. Cuộc khủng khoảng tài chính năm 1987 đã làm cho TTCK thế giới suy sụp và kiệt quệ. - Nhưng chỉ sau 2 năm TTCK thế giới lại đI vào ổn định , phát triển và trở thành một định chế tàI chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của những quốc gia có nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường. - Trong những năm gần đây, TTCK đã trảI qua một cuộc cách mạng thực sự do có các biến động lớn trong bối cảnh kinh tế, pháp lý hoặc kỹ thuật.
  • 12. TTCK đã có nhiều cải cách để phát triển như cải cách các chế độ thuế, thành lập một TTCK lhông chính thức, tạo ra các hình thức chứng phiếu mới, Hiện đại hoá thị trường vay nợ của nhà nước trên thị trường tín phiếu kho bạc, đổi mới kỹ thuật, tin học hoá mạnh trong giao dịch 1.2.2 ở Việt Nam Ngày 20/7/2000 khai trương Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh Ngày 28/7/2000, phiên giao dịch đầu tiên đã được thực hiện tại Trung tâm giao dịch CK thành phố Hồ Chí Minh, và chỉ có mặt của 2 cổ phiêú là LEE và CAP Cuối năm 2007, Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh nâng cấp thành Sở giao dịch chứng khoán Tính đến 31/7/2008, tại Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ chí Minh đã có 158 loại cổ phiếu, 478 loại tráI phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư của 34 công ty quản lý quỹ niêm yết giao dịch Ngày 8/3/ 2005, trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội ra đời, thực hiện đầu thầu chứng khoán và mua bán giao dịch những loại cổ phiếu,
  • 13. tráI phiếu chưa được niêm yết tại sàn Hồ Chí Minh. Kế hoạch, đến năm 2010 sẽ phát triển thành thị trường OTC Mở bài: 1. Ý nghĩa đề tài nghiên cứu: Từ thời xa xưa thị trường chứng khoán đã ra đời. Đầu tiên là những cổ phiếu nguyên thủy thường là các vận đơn đường biển của các ngân hàng trên các đầu tàu buôn nước ngoài. Không có việc trao đổi tiền giấy. Đơn vị quốc tế của nó là bạc rời thì vàng, những thổi bạc được cắt thành từng miếng 1/8, để khi cần thì dùng mua cổ phiếu hàng hoá, chính điều này giải thích vì sao chứng khoán được mua thành 1/8 ở Hoa Kỳ. Vài năm sau đó, cổ phiếu ngân hàng được chào bán để thiết lập một ngân hàng quốc gia đầu tiên.Từ đó các công ty bảo hiểm cũng xuất hiện, và kiểu cách có kinh doanh có tổ chức ra đời.Dù rằng không có một thị trường chứng khoán nào chính thức, nhưng cổ phiếu vẫn cư được trao đổi.Dường như ngày càng nhiều cổ phiếu được bán ngay trên quầy hàng như bất cứ sản phẩm nào khác.Đây chính là điểm khởi thủy của cái gọi là thị trường chứng khoán ngoài quầy ngày nay. Ngày nay thị trường chứng khoá có ở khắp nơi. Thêm vào các thị trường chứng khoán ở Hoa Kỳ, New York, còn có các thị trường chứng khoán địa phương ở khắp Hoa Kỳ, cũng như ở London, Pari, Tokyo và các nơi khác. Chính vì thị trường chứng khoán đã được rộng mở và ngày càng tiên tiến hơn. Không ai không khỏi ngạc nhiên khi biết đến thị trường chứng khoán rất dễ làm người ta trở thành tỷ phú mà cũng nhanh chóng trắng tay. Chính vì sự tò mò muốn biết thị trường chứng khoán ra sao nên em xin chọn đề tài “ toàn cảnh thị trường chứng khoán” bởi vì thị trường chứng khoán rất đa dạng, rất phức tạp cho nên em chọn đề tài này. 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. Là tìm hiểu toàn cảnh thị trường chứng khoán ở Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu, nghiên cứu để làm gì. Em chọn đề tài “ toàn cảnh thị trường chứng khoán” mục đích là muốn biết được: Thị trường chứng khoán hoạt động ra sao?. Lợi và haị khi đầu tư. Chứng khoán là gì ?.v.v Trong thời kì nhà nước mở cử hiện nay, thì các nước đều tạo mối quan hệ tốt với nhau mục đích là trao đổi mua bán, tạo mối quan hệ với các nước trên thế giới. Chính vì hoà nhập vào thế giới cho nên chúng ta cũng cập nhật được thông tin,mới nhất từ thế giới. Cho nên vào năm 1997chứng khoán lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam.Vì nó còn mới cho nên không tránh khỏi nhiều người tò mò muốn tìm hiểu đến nó. 4. Phương pháp sử dụng trong nghiên cứu. Duy vật biện chứng
  • 14. Duy vật lịch sử. 5. Bố cục: Chia làm ba phần: Phần 1: Thị trường chứng khoán là gì?. Phần 2: Thị trường chứng khoán vận hành như thế nào? Phần 3: Làm gì khi tham gia thị trường chứng khoán?.