1. PHẢN ỨNG MÀNG XƯƠNG
Phản ứng màng xương xảy ra khi vỏ xương phản ứng với một trong nhiều
tổn thương. U, nhiễm trùng, chấn thương, một số thuốc và một số bệnh
khớp có thể nâng cao màng xương từ vỏ xương và hình thành các dạng
phản ứng màng xương khác nhau (hình 1A, 1B, 1C, 1D, 1E, 1F, 1G, 1H,
1I). Hình thái phản ứng màng xương được xác định bởi cường độ, tính xâm
lấn và thời gian của tổn thương bên dưới. Hơn nữa, màngxương ở trẻ em
thường hoạt tính hơn và ít dính với vỏ xương hơn so với người lớn. Vì vậy,
phản ứng màng xương có thể xảy ra sớm hơn và có tính xâm nhập hơn ở
người lớn.
2. Hình 1A. Các phân nhóm khác nhau của phản ứng màng xương xâm lấn
và không xâm lấn. Các sơ đồ chỉ ra phản ứng màng xương mỏng (A), đặc
(B)
Hình 1C. Các phân nhóm khác nhau của phản ứng màng xương xâm lấn
và không xâm lấn. Các sơ đồ chỉ ra phản ứng màng xương: dày không đều
(C), có vách (D)
3. Hình 1E. Các phân nhóm khác nhau của phản ứng màng xương xâm lấn
và không xâm lấn. Các sơ đồ chỉ ra phản ứng màng xương lá (vỏ hành)
(E), vuông góc/tóc dựng ngược (hair-on-end) (F)
4. Hình 1G. Các phân nhóm khác nhau của phản ứng màng xương xâm lấn
và không xâm lấn. Các sơ đồ chỉ ra phản ứng màng xương: ánh mặt trời
(sunburst) (G), mất tổ chức (H).
Hình 1I. Các phân nhóm khác nhau của phản ứng màng xương xâm lấn và
không xâm lấn. Các sơ đồ chỉ ra phản ứng màng xương: tam giác Codman
(I).
5. Hình 2A. Phản ứng màng xương đặc (u xương dạng xương-osteoid
osteoma). Hình X quang nghiêng thấy phản ứng màng xương trơn láng,
dày ở vỏ xương phía trước phần dưới xương đùi (mũi tên).
6. Hình 2B. Phản ứng màng xương đặc (u xương dạng xương-osteoid
osteoma). Hình CT axial thấy ổ nidus thấu quang trung tâm (mũi tên) và
phản ứng màng xương dày (đầu mũi tên).
CÁC KIỂU PHẢN ỨNG MÀNG XƯƠNG
Có sự chồng lấp nhầm lẫn về thuật ngữ mô tả phản ứng màng xương trong
y văn. Người ta đã phân loại về thuật ngữ các dạng liên tục so với gián
đoạn, một lớp với nhiều lớp, các phân nhóm xâm nhập và không xâm nhập.
Trong việc đánh giá phản ứng màng xương, mục tiêu chính là nhận ra sự
hiện diện hơn là phân nhóm đặc hiệu vì có sự chồng lấp đáng kể trong các
nhóm bệnh dẫn đến hai dạng chính của phản ứng màng xương: xâm nhập
và không xâm nhập. Trong nhiều trường hợp, không thể xác định trên X
quang qui ước là bệnh lý lành hay ác. Quá trình bệnh lý gây tích tụ nhanh
của xương bị kết lại sau một thời gian ngắn có thể tạo ra phản ứng màng
xương xâm nhập, trong khi quá trình bệnh ít mạnh và tiến triển châm hơn
tạo ra hình ảnh không xâm lấn (bảng 1 và các hình 1A, 1B, 1C, 1D, 1E, 1F,
1G, 1H, 1I ).
BẢNG 1: Các kiểu phản ứng màng xương
Không xâm lấn
7. • Mỏng
• Đặc
• Dày không đều
• Có vách
Xâm lấn
• Tạo lá (vỏ hành)
• Có gai
Vuông góc/Tóc dựng ngược
Ánh mặt trời
• Mất tổ chức
• Tam giác Codman
Mặc dù có sự chồng lắp đáng kể, đôi khi các phân nhóm phản ứng màng
xương có thể gợi ý một số bệnh. Ví dụ, phản ứng màng xương đặc là một
dạng không xâm nhập chủ yếu gặp trong các quá trình bệnh diễn tiến
8. chậm, lành tính. Gãy xương đã lành, u xương dạng xương và viêm xương
tủy xương có thể tất cả đều có phản ứng màng xương đặc và có dạng
phiến dày hoặc mỏng (hình 2A, 2B).
Trong phân nhóm phản ứng màng xương dạng lá, hình thành nhiều lá
xương mới xung quanh vỏ xương, tạo ra hình ảnh dạng lá hoặc vỏ hành
(hình 3). Người ta cho rằng các chu kỳ luân phiên nhau của tổn thương
xương nhanh và chậm dẫn đến hình thành các lá đồng tâm. Tuy nhiên, các
nghiên cứu gần đây đã gợi ý rằng nhiều lá hình thành do sự điều biến của
các lá nguyên bào sợi ở mô mềm kế cận, phát sinh khả năng tạo xương và
cho ra các lá xương mới. Cơ chế được đề nghị khác là các lá xương mới
bong ra khỏi vỏ xương, lá thượng tầng bên trong bị kích thích để hình thành
lá xương mới ở bên dưới. Hình ảnh dạng lá nhìn thấy ở nhiều tổn thương
gồm sarcoma, viêm xương tủy xương và u nguyên bào sụn
(chondroblastoma).
9. Hình 3. Phản ứng màng xương dạng bong vỏ hành (viêm xương tủy
xương)Hình X quang thẳng cho thấy phản ứng màng xương dạng lá (mũi
tên) dọc theo vỏ xương đùi.
10. Hình 4. Phản ứng màng xương kiểu tóc dựng ngược (hair-on-end)
(sarcoma Ewing). Hình X quang nghiêng cẳng chân thấy các tua gai xương
tỏa ra vuông góc với vỏ xương (mũi tên).
Hình 5. Phản ứng màng xương kiểu tóc dựng ngược (hair-on-end) (Viêm
xương mạn). Hình axial CT xương bả vai cho thấy các tua gai (mũi tên)
xuất phát dọc theo vỏ xương bả vai phía sau.
(Nguồn: Katz L, New Haven, CT).
Dạng tua gai là dạng phản ứng màng xương xâm nhập gồm hai phân nhóm
tóc dựng ngược và ánh mặt trời. Các gai của xương hình thành vuông góc
với bề mặt màng xương trong phân nhóm tóc dựng ngược (hình 4 và 5), gợi
ý nhiều đến sarcoma Ewing. Các gai dạng dường của xương mới hình
thành dọc theo các kênh mạch mới và các dải xơ (các sợi Sharpey). Trong
phản ứng màng xương thuộc phân nhóm ánh mặt trời, các gai xương mới
11. tỏa ra theo kiểu phân ly thay vì vuông góc với vỏ xương (hình 6A, 6B, 6C)
một hình ảnh thường liên quan với sarcoma xương thông thường.
Hình 6A. Phản ứng màng xương ánh mặt trời (sunburst) (sarcoma tạo
xương biến chứng bệnh Paget lâu ngày). X quang thế đùi ếch của xương
đùi cho thấy phản ứng màng xương dạng ánh mặt trời và xâm nhập mất tổ
chức (mũi tên).
12. Hình 6B. Phản ứng màng xương ánh mặt trời (sunburst) (sarcoma tạo
xương biến chứng bệnh Paget lâu ngày). Hình axial T2W MRI (B) và axial
CT (C) cho thấy dày vỏ xương lan rộng (đầu mũi tên) và khối mô mềm lớn
(mũi tên) xuang quang thân xương đùi.
13. Hình 6C. Phản ứng màng xương ánh mặt trời (sunburst) (sarcoma tạo
xương biến chứng bệnh Paget lâu ngày). Hình axial T2W MRI (B) và axial
CT (C) cho thấy dày vỏ xương lan rộng (đầu mũi tên) và khối mô mềm lớn
(mũi tên) xung quanh thân xương đùi.
Tam giác Codman tạo ra khi một phần màng xương bong khỏi vỏ xương do
u, mủ hoặc xuất huyết ở một bờ (hình 7). Dạng phản ứng màng xương xâm
nhập này thường thấy trong sarcoma xương và đôi khi gặp trong nhiễm
trùng và di căn.
14. Hình 7. Tam giác Codman (ung thư tiền liệt tuyến). X quang thẳng phần xa
xương đùi cho thấy bờ màng xương (mũi tên mỏng) bong ra khỏi vỏ xương
(đầu mũi tên) ở vị trí di căn đặc xương (mũi tên dày). (Nguồn: Katz L, New
Haven, CT).
CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT PHẢN ỨNG MÀNG XƯƠNG
Đại cương về chẩn đoán phân biệt phản ứng màng xương được trình bày ở
bảng 2.
BẢNG 2: Chẩn đoán phân biệt phản ứng màng xương
15. Viêm khớp
• Viêm khớp vảy nến
• Viêm khớp phản ứng
Chuyển hóa
• Bệnh xương khớp phổi phì đại
• Bệnh đầu chi tuyến giáp (thyroid acropathy)
Bẩm sinh
• Chứng dày da viêm màng xương
(pachydermoperiostosis)
• Phản ứng màng xương sơ sinh
Chấn thương
• Gãy stress
16. • Gãy xương
Thuốc
• Chứng nhiễm fluor (fluorosis)
• Bệnh thừa vitamin A
• Prostaglandin
U
• Sarcoma xương
• Sarcoma Ewing
• U nguyên bào sụn
• U hạt bạch cầu ưa acid
• U xương dạng xương
• Leukemia và lymphoma
Nhiễm trùng
17. Di truyền
• Bệnh Caffey
Mạch máu
• Ứ trệ tĩnh mạch
Viêm khớp vảy nến
Viêm khớp vảy nến là bệnh lý khớp cột sống huyết thanh âm tính với các
biến đổi viêm liên quan đến da và khớp. Tăng sinh xương là một đặc điểm
quan trọng của viêm khớp vảy nến, và viêm màng xương xảy ra dọc theo
thân xương ngón tay. Ban đầu phản ứng màng xương phong phú và mịn.
Sau đó nó trở nên trưởng thành vào xương mới đặc, gây ra hình ảnh rộng
thân xương (hình 8). Dấu hiệu X quang phụ gồm loãng xương quanh khớp,
sưng mô mềm, mất sụn và mòn bờ xương.
18. Hình 8. Viêm khớp vảy nến. Hình X quang bàn tay thẳng thấy phản ứng
màng xương dày, đặc dọc theo đốt gần ngón tay giữa (mũi tên). Mòn bề
mặt xương thấy ở đầu của đốt ngón giữa và xa (đầu mũi tên).
Viêm khớp phản ứng
Viêm khớp phản ứng là một bệnh khớp cột sống huyết thanh âm tính khác,
có thể xảy ra sau nhiễm trùng sinh dục (Chlamydia trachomatis, Neisseria
gonorrheae) hoặc nhiễm trùng đường tiêu hóa (các chủng Salmonella,
Shigella, hoặc Campylobacter). Phản ứngh màng xương khu trú tạo ra, khó
phân biệt với viêm khớp vảy nến, nhưng thường ảnh hưởng đến chi dưới
(như xương gót và xương bàn chân). Phản ứng màng xương có thể dẫn
đến hình thành xương mịn dọc theo thân và hành xương.
19. Chứng dày da viêm màng xương
Chứng dày da viêm màng xương là một rối loạn di truyền nhiễm sắc thể
thường trội có đặc điểm là dày rõ rệt da của các chi mặt và sọ. Nó còn
được gọi là bệnh khớp xương phì đại nguyên phátvì không do nguyên nhân
thứ phát như bệnh phổi. Chứng dày da viêm màng xương là một bệnh tự
giới hạn thường ảnh hưởng đến trẻ vị thành niên và tiến triển một vài năm
trước khi ổn định. Phản ứng màng xương đối xứng và toàn thể hóa trong
chứng dày da viêm màng xương có xu hướng pha trộn với vỏ xương và liên
quan chủ yếu đến đầu xa của xương quay, trụ, xương chày và xương mác.
Phản ứng màng xương sinh lý ở trẻ sơ sinh
Phản ứng màng xương sinh lý ở trẻ sơ sinh thường đối xứng và xảy ra ở trẻ
nhỏ dưới 6 tháng và thường ở khoảng giữa 1 đến 4 tháng tuổi. Sự phát
triển nhanh của trẻ nhỏ và màng xương ít dính chặt có thể gây ra dấu hiện
này. Hình ảnh thông thương là phản ứng màng xương mỏng, một lớp
(<2mm) liên quan đến một phía của xương dài, đặc biệt là xương đùi và
xương chày (hình 9).
20. Hình 9. phản ứng màng xương sinh lý. Hình X quang thẳng của hai xương
đùi thấy phản ứng màng xương một lớp, trơn láng ở mặt ngoài hai thân
xương đùi (mũi tên). (Nguồn: Kotecha M, Philadelphia, PA).
Chứng nhiễm fluor (fluorosis)
Chứng nhiễm fluor được biết là do kích thích tạo cốt bào và có thể gây
phản ứng màng xương đặc, hầu hết thường ở xương ống phân bố đối xứng,
đặc biệt ở vị trí chỗ bám cơ và dây chằng. Các dấu hiệu kèm theo là đóng
vôi gân và dây chằng (dọc sau, lưng -chậu, ụ cùng và gai cùng) và xơ đặc
xương (hầu như nổi bật ở đốt sống và xương chậu).
Chứng thừa vitamin A
21. Retinoids thường được dùng để điều trị cho trẻ em và trẻ vị thành niên bị
mụn trứng cá nặng, vảy nến và bỏng. Lạm dụng có thể dẫn đến chứng
thừa vitamin A, gây ra phản ứng màng xương đặc dọc theo xương dài,
chậm phát triển và dính sớm sụn tiếp hợp. Phản ứng màng xương xảy ra
lớn nhất là gần trung tâm của thân xương và giảm dần về phía đầu xương.
Không giống như bệnh Caffey, phản ứng màng xương hiếm khi liên quan
đến xươngha2m dưới. Xương trụ, chi dưới, xương bàn tay và xương đòn là
vị trí thường gặp nhất.
Prostaglandins
Prostaglandins có thể dùng để sửa chữa còn ống động mạch ở trẻ nhỏ bị
tim bẩm sinh và sinh lý phụ thuộc ống. Chúng ược nghĩ là giảm tiêu xương
tạo cốt bào, dẫn đến phản ứng màng xương kèm đau chi và sưng chi đáng
kể. Tất cả dấu hiệu này đều được cải thiện sau khi ngừng thuốc.
Nhiễm trùng
Viêm xương tuỷ xương có thể gây phản ứng màng xương khu trú bất kỳ nơi
đâu nhưng chủ yếu gây ra hình ảnh này ở xương dài. Viêm lan dưới màng
xương gây nâng cao màng xương và kích thích sự đặt xuống các lớp xương
mới song song với thân xương. Cuối cùng, một lượng xương mới bao quanh
22. vỏ xương thành ột là xương dày không đều (bao xương) (hình 10). Sự gián
đoạn cung cấp máu vỏ xương dẫn đến hoại tử xương với sự để lại các
mảnh đặc xương chết vô mạch (xương tù). Trong số nhiều phân nhóm
phản ứng màng xương có thể xảy ra trong nhiễm trùng là các dạng mất tổ
chức, mỏng, tạo lá và tua gai. Cũng có thể tạo ra tam giác Codman thường
có huỷ xương ở trong giai đoạn cấp.
Hình 10. Viêm xương tuỷ xương mạn tính. X quang nghiêng phần duơi1
xương đùi thấy phản ứng màng xương dày, đặc (bao xương, mũi tên thẳng)
bao quanh xương chết (mảnh xương tù, đầu mũi tên).
Bệnh caffey
23. Bệnh Caffey còn được gọi là tăng sinh xương vỏ xương trẻ nhỏ, là một
bệnh viêm tự giới hạn hiếm gặpcu3a trẻ nhỏ, có đặc điểm là tăng kích
thích, sưng mô mềm, tăng sinh vỏ xương và ặc biệt thường liên quan đến
xương hàm dưới và xương mặt. Bệhn được cho là di truyền nhiểm sắc thể
thường, trội, liên quan với đột biến collagen type 1. Bệnh Caffey hầu như
luôn xảy ra trước 6 tháng và có đặc điểm là phản ứng màng xương dạng lá,
ảnh hưởng đến xương hàm dưới, xương bả vai, xương đòn và xương trụ,
xương sườn ít gặp hơn (hình 11).
Hình 11. Bệnh Caffey. X quang nghiêng ở bé gai 2 tháng tuổi đau chi ưới
trái cho thấy phản ứng màng xương dày, lan rộng dọc theo xương chày và
xương mác (mũi tên).
Bệnh xương khớp phổi phì đại
24. Bệnh xương khớp phổi phì đại là nguyên nhân thường gặp của phản ứng
màng xương ở người lớn liên quan với nhiều bệnh lý ác tính hoặc mạn tính.
Nó hầu như thường gặp ở bệnh nhân có u trong lồng ngực nguyên phát,
đặc biệt là ung thư phổi tế bào nhỏ. Các nguyên nhân thường gặp khác
gồm u màng phổi và trung thất, tổn thương phổi nung mủ mạn tính
(abscess phổi, dãn phế quản và tụ mủ), bệnh xơ nang, và di căn phổi ở trẻ
em và trẻ nhỏ. Đôi khi xảy ra liên quan với u ngoài ngực và bệnh đường
tiêu hoá (xơ gan do mật, viêm đại tràng loét, bệnh Crohn).
Hình 12A. Bệnh xương khớp phì đại thứ phát. Thế thẳng hai bên ở phần
dưới xương đùi cho thấy phản ứng màng xương một lớp dày và mỏng (mũi
tên) dọc theo thân xương đùi hai bên.
25. Hình 12B. Bệnh xương khớp phì đại thứ phát. Thế thẳng hai bên ở phần
dưới xương đùi cho thấy phản ứng màng xương một lớp dày và mỏng (mũi
tên) dọc theo thân xương đùi hai bên.
26. Hình 12C. Bệnh xương khớp phì đại thứ phát. X quang phổi thẳng cho thấy
khối thuỳ trên phổi phải do ung thư tế bào nhỏ (mũi tên).
Vì bệnh xương khớp phì đại qua trung gian hệ thống, mặc dù thông qua
một cơ chế không rõ, nó thường gây ra phản ứng màng xương phân bố
rộng và đối xứng (hình 12A, 12B, 12C và 13A, 13B, 13C). Nó thường liên
quan đến thân xương dài, chừa lại đầu xương. Có thể có liên quan đến
ngón tay dùi trống và thường lớn các chi và sưng các khớp.
Hình 13A. Bệnh xương khớp phổi phì đại. X quang hai bàn tay thẳng cho
thấy phản ứng màng xương đối xứng, mịn, dày dọc theo thân xương một
số bàn tay và ngón tay (mũi tên).
27. Hình 13B. Bệnh xương khớp phổi phì đại. X quang hai bàn tay thẳng cho
thấy phản ứng màng xương đối xứng, mịn, dày dọc theo thân xương một
số bàn tay và ngón tay (mũi tên).
28. Hình 13C. Bệnh xương khớp phổi phì đại. Xạ hình xương cho thấy tăng
hấp thu phóng xạ hai bên ở vị trí phản ứng màng xương.
Bệnh đầu chi do tuyến giáp
Bệnh đầu chi do tuyến giáp là một biến chứng hiếm của bệnh tuyến giáp tự
miễn, có đặc điểm lồi mắt tiến triển, sưng bàn tay và bàn chân tương đối
đối xứng, ngón tay dùi trống và phù niêm trước xương chày. Nó có thể phát
sinh ra sau cắt tuyến giáp hoặc điều trị iode phóng xạ của cường tuyến
giáp nguyên phát, với hầu hết các bệnh nhân trở nên bình giáp hoặc nhược
giáp khi triệu chứng phát triển. Bệnh đầu chi tuyến giáp tạo ra phản ứng
màng xương dạng gai đối xứng và toàn thể hoá, chủ yếu liên quan đến
phần giữa thân xương ống của bàn tay và bàn chân.
Gãy stress
Gãy stress có thể thấy phản ứng màng xương đặc kín đáo ở vùng đau hoặc
chấn thương. Bất thường nhìn thấy ớm trên MRI hơn X quang thường với
phù tuỷ xương và tăng tín hiệu cơ và màng xương trên T2W. Vị trí thường
gặp của gãy stress gổm xương chày, xương bàn tay, xương dài, xương
chậu và xương gót.
29. Gãy xương
Phản ứng màng xương liên quan đến gãy xương có thể cho thấy hình ảnh
đặc, không xâm nhập hoặc hình ảnh xâm nhập mất tổ chức hơn (hình 14A,
14B). Gãy xảy ra ở vị trí liên quan đến mức độ vận động lớn hơn có thể gây
ra phản ứng màng xương dạng mất tổ chức hoá hơn. Phản ứng màng
xương do chấn thương và gãy bệnh lý có thể có hình ảnh tương tự nhau.
Ngoài ra, có thể liên quan với khối mô mềm trên X quang thường, ần được
theo dõi để khẳng định máu tụ thuyên giảm.
Hình 14A. Gãy xương. X quang thẳng chụp 7 ngày sau chấn thương cho
thấy phản ứng màng xương xâm nhập mất tổ chức hoá ở vị trí gãy (mũi
tên) liên quan đến cổ đốt bàn chân III.
30. Hình 14B. Gãy xương. X quang thẳng chụp lại 4 tuần sau chấn thương cho
thấy phản ứng màng không xương xâm nhập mỏng ở cùng vị trí (mũi tên)
phù hợp với gãy xương đã liền.
Sarcoma xương
Sarcoma xương thông thường là u trong tuỷ xương độ ác cao thường gặp,
tạo ra chất căn bản dạng xương. Phần lớn các tổn thương xảy ra ở các
bệnh nhân dưới 25 tuổi, xương đùi, xương chày và xương mác là vị trí
thường gặp nhất. Thường thấy các phân nhóm phản ứng màng xương kiều
ánh mặt trời, tóc dựng ngược hoặc tam giác Codman (hình 15). Tuy nhiên,
cũng có thể thấy các dạng phản ứng màng xương dạng lá, đặc, mỏng
hoặc mất tổ chứ. Một vùng chuyển tiếp rộng, phá vỡ vỏ xương và khối mô
mềm là tất cả các đặc điểm dè dặt, cần phải đánh giá thêm.
31. Hình 15. Sarcoma tạo xương. Hình X quang nghiêng của phẩn giữa xương
đùi thấy phản ứng màng xương dạng ánh mặt trời với sự hình thành xương
mới kiểu phân ly (mũi tên). (Nguồn: Haims A, New Haven, CT).
Sarcoma Ewing
Sarcoma Ewing bắt nguồn từ các tế bào trung mô không biệt hoá của tuỷ
xương hoặc các tế bào ngoại bì thần kinh nguyên thuỷ và chiếm 6-8% các
u xương ác tính nguyên phát. Mặc dù vị trí đặc trưng là trong tuỷ, trên X
quang chỉ các thay đổi vỏ xương là rõ rệt với thành phần tiêu xương dạng
thấm hoặc mọt gặp. Có thể thấy khối mô mềm lớn. Dạng phản ứng màng
xương thường xâm nhập, với phân nhóm tóc dựng ngược khá đặc trưng
cho sarcoma Ewing.
32. U nguyên bào sụn
U nguyênba2o sụn là tổn thương tạo sụn lành tính thường xảy ở đầu xương
ở các bệnh nhân chưa trưởng thành xương trục. Tổn thương thường tiêu
xương và có thể có bờ xơ xương. Phản ứng màng xương do u nguyên bào
sụn thờng xảy ra nhiều nhất ở các tổn thương lớn trong xương dẹt hoặc
xương ống nhỏ. Phản ứng màng xương có thể dày, đặc hoặc dạng lá (hình
16)
Hình 16. U nguyên bào sụn. Hình X quang thấy phản ứng màng xương
dạng lá (mũi tên) và mất ổ chức dọc theo phần gần xương cánh tay.
33. U hạt bạch cầu ưa acid
U hạt bạch cầu ưa acid là dạng lành tính trong ba biến thể lâm sàng của
bệnh mô bào Langerhans (các bệnh khác là Letterer-Siwe và Hand-
Schüller- Christian ). Tăng sinh u của tế bào Langerhans biểu hiện nổi bật
là tổn thương huỷ xương. Tuy nhiên có thể có các vùng xơ xương với phản
ứng màng xương dạng dày hoặc dạng lá, đặc biệt trong giai đoạn liền
xương. Hình ảnh này có thể nhầm với viêm xương tuỷ xương.
U xương dạng xương
U xương dạng xương là một u tạo xương lành tính ảnh hưởng đến trẻ em
và người trẻ, hầu hết thường xảy ra ở xương đùi, xương chày, xương mác
hoặc xương cánh tay. Phản ứng màng xương đặc và dày phát sinh như là
đáp ứng của u. Ổ nidus thấu quang trung tâm có thể khó nhìn thấy trên X
quang qui ước và CT có thể giúp trong các trường hợp này (hình 17A, 17B,
17C). U xương dạng xương dưới màng xương có thể tạo ra phản ứng màng
xương xâm nhập lan rộng, trong khi tổn thương trong khớp thờng gây hình
thành xương mới tương đối ít.
34. Hình 17A. U xương dạng xương. X quang thẳng phần gần xương chày thấy
phản ứng màng xương dày, trơn láng dọc theo vỏ xương chày phía trong
(mũi tên).
35. Hình 17B. U xương dạng xương. Hình tái tạo coronal (A) và hình axial CT
(B) thấy ổ nidus trung tâm thấu quang (mũi tên) bao quanh bởi phản ứng
màng xương (đầu mũi tên).
36. Hình 17C. U xương dạng xương. Hình tái tạo coronal (A) và hình axial CT
(B) thấy ổ nidus trung tâm thấu quang (mũi tên) bao quanh bởi phản ứng
màng xương (đầu mũi tên).
Leukemia và Lymphoma
Cả leukemia và lymphoma đều có thể liên quan với phản ứng màng xương
dạng xâm nhập. Ở trẻ em, leukemia có lẽ ảnh hưởng đến xương dài nhiều
hơn, trong khi ở người lớn xương trục thường bị ảnh hưởng nhiều hơn.
Thường gặp phản ứng màng xương dạng lá hoặc mỏng (hình 18) với hình
ảnh tóc dựng ngược ít hơn. Lymphoma có thể gây ra phản ứng màng
xương xâm nhập và mất tổ chức, và có thể liên quan với khối mô mềm lớn
hơn vùng huỷ xương.
37. Hình 18. X quang thẳng xương đùi cho thấy phản ứng màng xương dày
đặc dọc theo thân xương đùi hai bên.
Ứ trệ tĩnh mạch
Ứ trệ tĩnh mạch, đặc biệt là ở chi dưới, có thể dẫn đến phản ứng màng
xương đặc lượn sóng toàn thể, ban đầu có thể tách khỏi vỏ xương (hình
19). Tăng áp lực dịch mô kẽ trung bình trong ứ trệ tĩnh mạch có thể gây đè
ép vào màng xương, dẫn đến hình thành màng xương mới phản ứng. Mặc
dù không phải luôn hiện diện, các manh mối để chẩn đoán gồm phù dưới
da lan rộng ngấm vôi (phlebolith) trong các tĩnh mạch dãn.
38. Hình 19. Ứ trệ tĩnh mạch. Hình thành xương mới bao bọc xương chày và
xương mác.
PHẢN ỨNG MÀNG XƯƠNG MỘT BÊN SO VỚI HAI BÊN.
Phản ứng màng xương một bên được gây ra do quá trình bệnh khu trú như
chấn thương, u hoặc nhiễm trùng. Phản ứng màng xương hai bên thường
do quá trình bệnh lý hệ thống và chẩn oán phân biệt thường được thu hẹp
theo tuổi và biểu hiện lâm sàng. Trước 6 tháng, nguyên nhân thuờng gặp
nhất là viêm màng xương sinh lý của trẻ sơ sinh, bệnh Caffey và viêm
màng xương liên quan với việc dùng prostaglandin. Phản ứng màng xương
hai bên xuất hiện sau 6 tháng có thể gợi ý bệnh xương khớp phì đại, viêm
khớp vô căn người trẻ, thừa vitamin A và ứ trệ tĩnh mạch. Trong tình huống
39. lâm sàng thích hợp, cần để ý đến chấn thương không do tai nạn dẫn đến
nhiều gãy xương đã liền như là một nguyên nhân.
KẾT LUẬN
Phản ứng màng xương do đáp ứng của vỏ xương với nhiều tổn thương. Ghi
nhận sự hiện diện của phản ứng màng xương là một bước quan trọng nhất.
Đôi khi, dạng phản ứng màng xương ợi ý nhiều đến một quá trình bệnh lý
đặc biệt, nhưng nói chung có sự trùng lắp đáng kể trong các nhóm bệnh
dẫn đến dặng xâm nhập và không xâm nhập. Quá trình bệnh hoạt động
nhanh, mạnh thường dẫn đến phản ứng màng xương xâm nhập, các quá
trình chậm hơn, không đau dẫn đến dạng không xâm nhập. Các nguyên
nhân phản ứng màng xương là rộng, bao gồm chấn thương, nhiễm trùng,
viêm khớp, , do thuốc và các nhóm mạch máu. Khi phản ứng màng xương
xảy ra theo phân bố hai bên, cầu xem xét đến bệnh lý hệ thống.