Khi chúng ta áp dụng kiến thức của mình về các lực cơ bản trong thiên nhiên (như trọng lực, quán tính...) để tìm hiểu về cơ học thiên thể, chúng ta sẽ đến với một cách hiểu mới về vũ trụ. Trong bản thuyết trình này, chúng tôi xin đề cập đến bốn chủ đề vũ trụ học: 1) Năng lượng Tối, 2) Lý thuyết Trường Thống nhất, 3) Vụ Nổ lớn, và 4) sự dịch chuyển đỏ các thiên hà và ngôi sao xa xôi.
1. Năng lượng Mới cho một
nước Việt Nam siêu hiện đại
Phần 3: Khoa học Năng lượng Mới
Vũ trụ học (Cosmology)
Tháng 6/2014 Vietnam New Energy Group
2. Để thảo luận và đặt câu hỏi
về bài thuyết trình này, xin mời bạn
ghé thăm website và diễn đàn của
Nhóm Năng lượng Mới Việt Nam:
www.nangluongmoisaigon.org
3. Hoặc lên trang Facebook của
“Nhóm Năng lượng Mới Việt Nam”
4. Trong phần trước
(Các lực cơ bản
trong Thiên nhiên),
chúng ta vừa bàn
đến các giao tiếp
trường plasma – ví
dụ như khi 2 thiên
hà gặp nhau.
5. Chủ đề của chúng ta hôm nay cũng
liên quan đến thiên văn:
“Vũ trụ học dưới quan điểm
khoa học Năng lượng Mới”
6. Có ít nhất bốn chủ đề vũ trụ học cần
được xem xét lại dưới quan điểm
khoa học Năng lượng Mới.
1. Năng lượng tối (Dark energy)
2. Lý thuyết Trường Thống Nhất (Unified Field
Theory)
3. Sự dãn nở của vũ trụ sau “Vụ Nổ lớn”
4. Sự dịch chuyển đỏ các thiên hà và ngôi sao xa
xôi
7. Đầu tiên, để chúng ta hãy bàn đến
Năng lượng Tối.
• Lý thuyết về “Năng
lượng Tối” được
nêu ra bởi các nhà
vũ trụ học tin rằng
lực hấp dẫn là cái
lực cơ bản nhất
đang kiểm soát
những giao tiếp
liên thiên hà và
liên sao
8. Rất có thể, họ tin rằng lực hấp dẫn kiểm soát
các giao tiếp nói trên vì ai cũng thấy rằng
lực hấp dẫn kiểm soát các giao tiếp giữa
Mặt trời, Trái đất, và Mặt trăng.
9. Nhưng khi họ đi từ nhận xét đó đến nhận định
rằng lực hấp dẫn cũng đóng vai trò then chốt
trong các giao tiếp liên thiên hà và liên sao,
phải nói họ chưa có một cơ sở rõ ràng.
10. Xin hãy nhớ sự phân biệt của chúng ta
trong phần trước rằng
“Lực hấp dẫn đóng vai trò quyết định trong các
giao tiếp nội bộ, còn năng lượng điện từ đóng
vai trò quyết định trong các giao tiếp ngoài
trong các hệ không kín.”
11. Vì đa số các nhà vũ trụ học chưa
nhận thức rằng các thiên hà và ngôi sao
giao tiếp với nhau theo các nguyên tắc
của giao tiếp plasma, nên họ gặp
nhiều khó khan khi cố miêu tả vũ trụ
bằng lực hấp dẫn.
Ví dụ:
12. Các thiếu sót của Mô hình trọng lực
đối với cơ học thiên thể
• Trọng lực không
thể giải thích
được làm sao
các thiên hà đã
hình thành
13. Các thiếu sót của Mô hình trọng lực
đối với cơ học thiên thể
• Trọng lực cũng không thể giải thích được làm
sao các ngôi sao đầu tiên hình thành
14. Các thiếu sót của Mô hình trọng lực
đối với cơ học thiên thể
• Trọng lực không giải thích được tại sao tốc độ di
chuyển của phần bên ngoài và phần bên trong
của một thiên hà hình xoắn là bằng nhau.
15. Các thiếu sót của Mô hình trọng lực
đối với cơ học thiên thể
• Theo Mô hình trọng lực, lẽ ra chúng ta nên thấy
những sự khác biệt lớn trong bức xạ nền của vũ
trụ (cosmic background radiation) nhưng các
quan sát cụ thể cho thấy rằng nó khá đồng đều.
16. Để “sửa” các lỗ hổng trong lý thuyết
của họ, những nhà vũ trụ học “nghiện
trọng lực” này đã đề xuất nhiều từ ngữ
và phương trình mới về “Năng lượng
tối”, “Vật chất tối”, v.v.
17. Dù thế, chưa nhà khoa học hay thiết bị
khoa học nào đã nhìn thấy “Năng lượng tối”
hay “Vật chất tối” huyền bí này bao giờ
18. Giới vũ trụ học dòng chính cố giải thích
rằng Năng lượng và Vật chất “tối”
của họ, về nguyên tắc, là những
điều không thể quan sát được
19. Nhưng ngày nay, một số nhà khoa học ngày càng
đông đang thiên về quan điểm rằng “Năng lượng
tối” và “Vật chất tối” là những khái niệm không hợp
lý, được nêu ra chủ yếu để tránh khỏi phải xem xét
loại toàn bộ các ý tưởng cơ bản trong vũ trụ học
20. Hiện, một số nhà khoa học cho rằng Năng lượng
Điểm 0 thực chất là cái “Năng lượng Tối”
thế hệ trước từng nêu ra
21. Nếu họ đúng, sẽ có nhiều hệ quả
quan trọng đối với vũ trụ học
22. Thứ nhất, sẽ có nghĩa rằng
không hề có một “Vụ Nổ lớn”
23. Thay vào đó, vũ trụ vật thể đã “sủi lên”
từ trường ether chuyển hóa
Khái niệm về
“ether chuyển
hóa” được định
nghĩa và tìm
hiểu trong
thuyết Hạ
lượng tử động
lực học
24. Vũ trụ đã hình thành (thực ra nó vẫn tiếp
tục hình thành ngày nay) dựa chủ yếu trên
các nguyên tắc của vật lý plasma
25. và chúng ta đã thấy rằng vật lý plasma
rất liên quan đến nhiều ứng dụng
Năng lượng Mới
26. Đã đành, quá trình “sủi lên” từ ether chuyển
hóa trong vũ trụ vật thể của chúng ta có thể
có một thời điểm khởi đầu, nhưng nó không
cần thiết phải mang tính chất của một vụ nổ
27. Thứ 2, các nguyên lý của vật lý plasma
(trong đó, trọng lực chỉ đóng một vai
trò phụ, còn điện và từ trường đóng
những vai trò lớn) có hiệu lực ở cấp độ
vi mô cũng như cấp độ vĩ mô.
Chúng có thể giải thích những gì chúng
ta thấy trong một nguyên tử Hydro
cũng như sự va chạm của hai thiên hà.
28. Điều này giúp chúng ta tiến tới một Lý thuyết
Trường Thống nhất, tức là sự hòa hợp Thuyết
Tương Đối Rộng với Điện-động lực học Lượng tử
29. Thứ 3, đây có nghĩa rằng Vũ trụ
không có dãn nở theo cách hiểu của
vũ trụ học truyền thống
30. Khái niệm rằng Vũ trụ phải dãn nở là
một hệ quả của thuyết Vụ Nổ lớn
31. Theo thuyết Vụ Nổ lớn, đang có những
siêu cụm thiên hà (superclusters of
galaxies) xa xôi di chuyển với tốc độ
rất nhanh – gần nhanh bằng
tốc độ ánh sáng “c”
… và nhiều điều khó tin khác
32. Theo vũ trụ học truyền thống, sự dịch
chuyển đỏ của các thiên hà và ngôi sao xa
xôi là bằng chứng sự dãn nở của vũ trụ
33. Tuy nhiên, theo khoa học Năng lượng
Mới, hiện tượng dịch chuyển đỏ
nói trên là vì khi các photon di chuyển
rất xa (hàng triệu hay hàng tỷ năm
ánh sáng), chúng sẽ có khuynh hướng
mất năng lượng và trở về
trường ether chuyển hóa.
34. Hãy nhớ, khi các photon di chuyển trong
chân không của không gian, cái “chân
không” này không phải là trống rỗng
39. Đây được gọi là “giả thiết ánh sáng
mệt” (tired light hypothesis)
• Nó trở nên nổi tiếng sau
khi Walther von Nernst
đề xuất nó năm 1921
40. Vào thế kỷ XX, giả thiết về “ánh sáng
mệt” không thu hút sự ủng hộ của
nhiều nhà vật lý, chủ yếu vì chưa có ai
biết về các hạt ảo và khả năng của
chúng để ngăn chặn hành trình của
một photon trong không gian.
41. Tuy nhiên, ngày nay một số nhà khoa học
ngày càng đông (nổi bật là Don Hotson và
Paul LaViolette) đang rao giảng một phiên
bản cập nhật của giả thiết ánh sáng mệt
42. Nếu giả thiết ánh
sáng mệt là
đúng, thì nó sẽ
giải thích được
tại sao ánh sáng
từ các ngôi sao
và thiên hà xa xôi
đã được dịch
chuyển đỏ
43. Nói cách khác, sự dịch chuyển đỏ
không phải do hiệu ứng Doppler
44. Và như vậy, chúng ta có thể loại bỏ lý thuyết
của ông Hubble về sự dãn nở của vũ trụ
45. Chúng tôi xin nhấn mạnh chỉ 1 lần nữa
thôi, vì điều này rất quan trọng:
Không hề có một “Vụ Nổ Lớn”
46. Với sự phát triển của nền khoa học Năng
lượng Mới, nhiều người đang tuyên bố rằng:
“Thuyết Vụ Nổ lớn đã chết!”
Dữ liệu từ kính viễn vọng Chandra được xem như những bằng chứng rằng thuyết Vụ Nổ lớn
đã sai. Xem Galianni et al., “The Discovery of a High Redshift X-ray Emitting QSO Very
Close to the Nucleus of NGC 7319” (2004) http://arxiv.org/abs/astro-ph/0409215
47. Vậy, hôm nay chúng ta vừa thấy rằng, khi sự
hiện hữu và vai trò của Năng lượng Điểm 0
trong vũ trụ được công nhận, chúng ta có
một cơ sở để xem xét lại về các khái niệm
cơ bản trong lĩnh vực vũ trụ học
• Năng lượng Điểm 0 tức là “Năng lượng Tối”
• Thuyết Vụ Nổ Lớn là thiếu cơ sở khoa học
• Sự dịch chuyển đỏ của ánh sáng từ các thiên
thể xa xôi là do hiện tượng “ánh sáng mệt”
• Chúng ta có thể tiến tới việc thống nhất Điện-
động học lượng tử với Thuyết Tương Đối Rộng