SlideShare a Scribd company logo
1 of 83
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

                             LỜI NÓI ĐẦU

   Hiện nay, nước ta đang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước thì các doanh
nghiệp Nhà nước nổi lên là một bộ phận quan trọng, là chỗ dựa để kinh tế Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Thông qua nó, Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết
vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN.
Trong khi đó một số doanh nghiệp Nhà nước còn có nhiều tiêu cực, làm ăn
không có hiệu quả và thua lỗ. Vì vậy một yêu cầu đặt ra là phải làm sao để các
doanh nghiệp Nhà nước - các doanh nghiệp nắm giữ các ngành, các lĩnh vực
trọng yếu của nền kinh tế có thể phát triển một cách vững mạnh và thực sự trở
thành một lực lượng vật chất hùng mạnh.
   Để có thể đứng vững và phát huy vai trò to lớn của mình trong nền kinh tế
thị trường, các doanh nghiệp Nhà nước phải làm ăn thật sự hiệu quả mà trước
hết là phải quản lý, sử dụng tốt các nguồn đầu vào. Do đó việc quản lý tốt tiền
lương, thu nhập - một trong những chi phí đầu vào là hết sức cần thiết, làm sao
để sử dụng hiệu quả nhất chi phí tiền lương, phát huy được vai trò đòn bẩy kinh
tế của tiền lương.
   Trong thời gian vừa qua vấn đề quản lý tiền lương, thu nhập trong các
doanh nghiệp Nhà nước mặc dù đã được nhiều nhà quản lý, nghiên cứu đề cập
đến nhưng do tiền lương một mặt là vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm, mặt
khác tiền lương trong cơ chế thị trường vẫn là một vấn đề mới nên việc đưa ra
các chính sách, giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập
trong các doanh nghiệp Nhà nước là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và cần thiết
trong giai đoạn hiện nay. Nó có liên quan chặt chẽ đến động lực phát triển và
tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, khai thác các khả
năng tiềm tàng từ mỗi người lao động.
   Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề và được sự giúp đỡ nhiệt tình
của tập thể cán bộ Vụ Tiền lương - Tiền công - Bộ Lao động - Thương binh và
                                                                              1
http://luanvan.forumvi.com     email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

Xã hội, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo GS.TS Phạm Đức
Thành, tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài: “Hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương,
thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước”.


   Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm ba phần chính như sau:
   Phần I: Ý nghĩa của việc hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập
trong các doanh nghiệp Nhà nước.
   Phần II: Thực trạng cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập trong các
doanh nghiệp Nhà nước.
   Phần III: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý
tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước.


   Tôi đã cố gắng trình bày vấn đề một cách khái quát và đầy đủ nhất. Tuy
nhiên, đây là một vấn đề phức tạp và do kiến thức, kinh nghiệm còn nhiều hạn
chế nên bài viết khó tránh khỏi khiếm khuyết. Rất mong nhận được những ý
kiến góp ý để tôi có thể nắm bắt vấn đề toàn diện hơn nữa và vững vàng hơn,
hoàn thiện hơn trong những lần viết sau.
   Tôi xin chân thành cảm ơn!




                                                                             2
http://luanvan.forumvi.com      email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

                                   PHẦN I
Ý NGHĨA CỦA VIỆC HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ TIỀN LƯƠNG,
THU NHẬP TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.

I.    NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG, THU NHẬP VÀ QUẢN
      LÝ TIỀN LƯƠNG, THU NHẬP TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ
      NƯỚC

1. Lý luận chung về tiền lương, thu nhập

1.1. Khái niệm, bản chất của tiền lương, thu nhập
      Từ khi sức lao động trở thành hàng hoá, xuất hiện thị trường sức lao động
(hay còn gọi là thị trường lao động) thì khái niệm tiền lương xuất hiện. Tiền
lương là một phạm trù kinh tế - xã hội, thể hiện kết quả của sự trao đổi trên thị
trường lao động.
      Để có thể tiền hành sản xuất, cần có sự kết hợp của hai yếu tố cơ bản là
lao động và vốn. Vốn thuộc quyền sở hữu của một bộ phận dân cư trong xã hội,
còn một bộ phận dân cư khác, do không có vốn, chỉ có sức lao động họ phải đi
làm thuê cho những người có vốn, đổi lại họ được nhận một khoản tiền, gọi là
tiền lương( hay tiền công). Như vậy khái niệm "tiền lương" xuất hiện khi có sự
sử dụng sức lao động của một bộ phận dân cư trong xã hội một cách có tổ chức
và đều đặn bởi một bộ phận dân cư khác. Tiền lương, tiền công được hiểu là
giá cả sức lao động, nó là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động.
      Xét trong mối quan hệ lao động thì tiền lương là giá cả sức lao động,
được hình thành thông qua sự thoả thuận giữa người sử dụng sức lao động và
người lao động phù hợp với quan hệ cung cầu lao động trên thị trường. Vậy giá
cả sức lao động do cái gì quyết định, do lượng hao phí lao động xã hội cần thiết
hay do cung cầu trên thị trường quyết định? Chúng ta phải hiểu là cơ sở của giá
cả sức lao động là do lượng hao phí lao động xã hội cần thiết quyết định (còn
gọi là giá trị sức lao động), còn sự biến động trên thị trường của giá cả sức lao
động xoay quanh giá trị sức lao động là do quan hệ cung cầu quyết định.


                                                                                3
http://luanvan.forumvi.com      email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

      Ta có thể đi đến một khái niệm đầy đủ về tiền lương, tiền lương là biểu
hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá cả yếu tố sức lao động mà
người sử dụng sức lao động phải trả cho người cung ứng sức lao động, tuân
theo nguyên tắc cung cầu, giá cả của thị trường và pháp luật hiện hành của
Nhà nước.
      Để có một khái niệm mang tính pháp lý về tiền lương, Điều 55 Bộ luật
Lao động có ghi: "Tiền lương của người lao động do hai bên thoả thuận trong
hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả
công việc. Mức lương của người lao động không được thấp hơn mức lương tối
thiểu do Nhà nước quy định".
      Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như ở nước ta
hiện nay, phạm trù tiền lương được thể hiện cụ thể trong từng thành phần và
khu vực kinh tế.
      Trong thành phần kinh tế Nhà nước và khu vực hành chính sự nghiệp,
tiền lương là số tiền mà các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức của Nhà nước
trả cho người lao động theo cơ chế và chính sách của Nhà nước và được thể
hiện trong hệ thống thang, bảng lương do Nhà nước quy định.
      Trong các thành phần và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, tiền lương
chịu sự tác động và chi phối rất lớn của thị trường và thị trường lao động. Tiền
lương trong khu vực này dù vẫn nằm trong khuôn khổ pháp luật và theo những
chính sách của Chính phủ, nhưng được quyết định theo sự thoả thuận trực tiếp
giữa chủ và thợ, những "mặc cả" cụ thể giữa một bên là làm thuê và một bên đi
thuê thông qua hợp đồng lao động.
      Cùng với phạm trù tiền lương, chúng ta còn có các phạm trù khác như:
tiền công, thu nhập, chúng cùng mang bản chất với tiền lương tức là đều biểu
hiện bằng tiền của giá trị sức lao động.
      Nhưng giữa tiền lương và tiền công có sự phân biệt nhất định. Trước đây
hai khái niệm này khác nhau về cả nội dung và đối tượng chi trả. Khái niệm tiền
lương được sử dụng trong khu vực quốc doanh, nó là phần trả trực tiếp cho
                                                                               4
http://luanvan.forumvi.com       email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

người lao động, ngoài tiền lương được trả bằng tiền người lao động còn nhận
được phần phân phối gián tiếp bằng hiện vật thông qua tem, phiếu và một số
chính sách phúc lợi như chính sách nhà ở, bảo hiểm xã hôi, khám chữa bệnh...
Tiền công được dùng cho các đối tượng còn lại ngoài Kinh tế quốc doanh, nó
bao gồm cả phần trả trực tiếp và gián tiếp cho người lao động. Nói khác đi tiền
công chính là tiền lương đã được tiền tệ hóa.
         Hiện nay tiền lương và tiền công dường như không còn sự tách biệt, đều
là giá cả sức lao động nhưng vẫn còn thói quen quan niệm tiền lương gắn với
khu vực kinh tế quốc doanh và tiền công gắn với khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh.
         Nhưng dù tiền lương hay tiền công cũng đều phải đảm bảo các yêu cầu
sau :
+ Tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất sức lao động mở rộng
+ Thúc đẩy tăng năng suất lao động
+ Phù hợp với cung cầu lao động
         Trong khái niệm tiền lương cần phân biệt giữa tiền lương danh nghĩa và
tiền lương thực tế. Tiền lương danh nghĩa là số tiền người lao động trực tiếp
nhận được từ phía người sử dụng lao động trả cho công việc họ làm, còn tiền
lương thực tế được hiểu là lượng hàng hóa, dịch vụ cần thiết mà người lao động
hưởng lương mua được bằng lượng tiền lương danh nghĩa của họ.
         Như vậy tiền lương thực tế không chỉ phụ thuộc vào tiền lương danh
nghĩa mà còn phụ thuộc vào giá cả hàng hoá, dịch vụ cần thiết. Mối quan hệ
giữa tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế được thể hiện thông qua công
thức :
                                       Itldn
                         Itltt =
                                      Igc
         Trong đó :
         Itltt : là chỉ số tiền lương thực tế
         Itldn : là chỉ số tiền lương danh nghĩa
                                                                              5
http://luanvan.forumvi.com             email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

      Igc : là chỉ số giá cả
      Thu nhập có cùng bản chất với tiền lương nhưng được hiểu với nghĩa
rộng hơn, thu nhập của một người lao động là tất cả những khoản thu mà người
lao động đó nhận được từ việc cung ứng sức lao động của mình, bao gồm cả
tiền lương (hay tiền công), tiền thưởng, tiền ăn ca...
1.2. Các chức năng cơ bản của tiền lương:
1.2.1. Thước đo giá trị của lao động
     Do lao động là hoạt động chính của con người và là đầu vào của mọi qúa
trình sản xuất trong xã hội, tiền lương là hình thái cơ bản của thù lao lao động
thể hiện giá trị của khối lượng sản phẩm và dịch vụ mà người lao động nhận
được trên cơ sở trao đổi sức lao động. Hiểu theo cách này, tiền lương bị chi
phối bởi quy luật giá trị và phân phối theo lao động.
1.2.2. Duy trì và phát triển sức lao động
     Tiền lương là bộ phận thu nhập chính của người lao động nhằm thoả mãn
phần lớn các nhu cầu về văn hoá và vật chất của người lao động. Mức độ thoả
mãn các nhu cầu của người lao động phần lớn được căn cứ vào độ lớn của các
mức tiền lương. Độ lớn của tiền lương phải tạo ra các điều kiện cần thiết để bảo
đảm tái sản xuất sức lao động giản đơn và mở rộng sức lao động cho người lao
động và gia đình họ. Hiểu theo cách này tiền lương bị chi phối bởi quy luật tái
sản xuất sức lao động. Có nghĩa là trong một chừng mực nhất định, cần thiết
phải bảo đảm mức lương tối thiểu cho người lao động không phụ thuộc vào
hiệu quả lao động của họ. Bên cạnh đó, các mức tiền lương tăng không ngừng
sẽ có tác động nâng cao khả năng tái sản xuất sức lao động, tạo điều kiện nâng
cao chất lượng lao động và các giá trị khác của người lao động.
1.2.3. Kích thích lao động.
     Các mức tiền lương và cơ cấu tiền lương là các đòn bẩy kinh tế rất quan
trọng để định hướng quan tâm và động cơ trong lao động của người lao động.
Khi độ lớn của tiền lương phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất kinh doanh, khi khối
lượng các tư liệu sinh hoạt của người lao động phụ thuộc trực tiếp vào độ lớn
                                                                               6
http://luanvan.forumvi.com        email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

của các mức tiền lương thì người lao động sẽ quan tâm trực tiếp đến kết quả
hoạt động của họ. Nâng cao hiệu quả lao động là nguồn gốc để tăng thu nhập,
tăng khả năng thoả mãn nhu cầu của người lao động. Hiểu theo cách này, tiền
lương bị chi phối bởi quy luật không ngừng thoả mãn các nhu cầu sinh hoạt và
không ngừng nâng cao năng suất lao động. Nguyện vọng không ngừng thoả
mãn các nhu cầu sinh hoạt được thể hiện trong việc không ngừng nâng cao hiệu
quả lao động, không ngừng nâng cao năng suất lao động, tăng hiệu quả lao
động.
1.2.4. Kích thích kinh tế phát triển và thúc đẩy sự phân công lao động trên
        toàn bộ nền kinh tế
     Trên lĩnh vực vĩ mô, tổng mức tiền lương quyết định tổng cầu về hàng hoá
và dịch vụ cần thiết phải sản xuất. Do vậy, việc tăng các mức tiền lương có tác
dụng kích thích tăng sản xuất, qua đó tăng nhu cầu về lao động.
     Bên cạnh đó, sự chênh lệch tiền lương giữa các ngành, các nghề thúc đẩy
sự phân công và bố trí lao động cũng như các biện pháp nâng cao năng suất lao
động.
1.2.5. Chức năng xã hội của tiền lương
     Cùng với việc không ngừng nâng cao năng suất lao động, tiền lương là
yếu tố kích thích không ngừng hoàn thiện các mối quan hệ lao động. Việc gắn
tiền lương với hiệu quả của người lao đọng và đơn vị kinh tế sẽ thúc đẩy mối
quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau để đạt được các mức tiền lương cao nhất. Bên
cạnh đó, tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện của con người và thúc đẩy xã
hội phát triển theo hướng dân chủ hoá và văn minh hoá.
     Tóm lại, tiền lương là một phạm trù kinh tế tổng hợp và là đòn bẩy kinh tế
rất quan trọng đến sản xuất, đời sống và các mặt khác của nền kinh tế xã hội,
tiền lương được trả đúng đắn có tác dụng: (1) đảm bảo tái sản xuất sức lao
động và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho người lao
động; (2) là một yếu tố quan trọng để nâng cao năng suất lao động; (3) tạo
điều kiện để phân bố hợp lý sức lao động giữa các ngành nghề, các vùng, các
                                                                              7
http://luanvan.forumvi.com      email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

lĩnh vực trong cả nước: (4) thúc đẩy bản thân người lao động và xã hội phát
triển.
1.3. Tiền lương trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
         Các đặc điểm cơ bản của tiền lương:
         Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, việc đảm bảo mức sống
tối thiểu cho người lao động và gia đình họ là một mục tiêu quan trọng. Do vậy
tiền lương không bị hạ thấp một cách quá đáng hoặc quá linh hoạt, trái lại, nó
dừng ở một mức vừa phải và có tính ổn định. Tuy nhiên, thất nghiệp vì thế cũng
có nguy cơ gia tăng nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời của Chính phủ
thông qua các giải pháp kích cầu.
         - Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tiền lương có mối quan
hệ tỷ lệ thuận với mức tăng lợi nhuận và tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh
tế là tiền đề để tăng tiền lương, thu nhập, nâng cao mức sống của người làm
công ăn lương và do vậy lợi nhuận phải được thực hiện trên cơ sở tăng năng
suất lao động, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, không dựa trên việc
khai thác, bóc lột sức lao động.
         - Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, việc tăng tiền lương
cần thiết phải đạt được trên cơ sở tăng cường mối liên kết giữa lao động và
quản lý, tiến tới sự kết hợp hài hoà của các lợi ích, trên cơ sở các bên cùng có
lợi, cùng chia sẻ lợi ích.
         - Phân phối tiền lương và thu nhập trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN phản ánh sự chênh lệch về số lượng và chất lượng lao động thực
hiện. Tiền lương không đơn thuần thể hiện chi phí đầu vào, mà còn thể hiện cả
kết quả của "đầu ra". Bài toán phân chia tiền lương trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN là bài toán phân chia lợi ích được thực hiện thông qua việc
phát huy vai trò của thoả ước lao động cũng như sự can thiệp của Chính phủ.
         - Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước tham gia
một cách tích cực và chủ động vào quá trình phân phối (bao gồm phân phối lần
đầu và phân phối lại). Tuy nhiên, Nhà nước thực hiện sự phân chia tiền lương
                                                                               8
http://luanvan.forumvi.com         email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

thông qua hệ thống pháp luật và chính sách kinh tế, xã hội vừa bảo đảm hạn chế
sự bóc lột và tiêu cực trong kinh doanh của người chủ đồng thời khuyến khích
lợi ích chính đáng, tính tích cực, sáng tạo của họ.
      - Việc làm, an toàn việc làm và an sinh xã hội là mối quan tâm của người
lao động, do đó mức tiền lương cần phải đủ lớn để duy trì cuộc sống của họ
trong ngày hôm nay và cho cả khi họ không có sức lao động. Nói cách khác,
tiền lương cần bao gồm cả tiền lương cơ bản và một phần cho an sinh xã hội
phòng khi thất nghiệp. Về thực chất tiền lương này cao hơn so với tiền lương
của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
      Các nguyên tắc cơ bản của tiền lương:
      - Tiền lương bị chi phối không những bởi quy luật giá trị, quy luật cung
cầu lao động mà còn bị chi phối bởi các qui luật kinh tế khác, trong đó có qui
luật về mức sống tối thiểu.
      - Cách biệt về tiền lương giữa những người thấp nhất và cao nhất không
như tiền lương trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
      - Tiền lương có tính bảo đảm cao, không những bảo đảm mức sống cho
người lao động trong quá trình làm việc mà còn bảo đảm cho họ có mức sống
khi suy giảm sức lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn.
      - Tiền lương dựa trên điều kiện lao động tốt, các tiêu chuẩn lao động và
chế độ làm việc ngày càng được hoàn thiện.
      - Tiền lương linh hoạt tương đối, không những thể hiện giá trị lao động
mà cả hiệu suất lao động do sự tham gia của người lao động vào quá trình phân
phối lần đầu và lần 2 trong nội bộ doanh nghiệp.
      - Mức tiền lương tăng dựa trên sự khai thác các yếu tố tiềm năng trong
sản xuất. Tiền lương là kết quả của mối liên kết quản lý lao động, không dựa
vào sự chiếm đoạt của người sử dụng lao động đối với người lao động.
      Tuy nhiên Việt Nam hiện tại trong thời kỳ quá độ, từ nền sản xuất nông
nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy, không thể tránh khỏi những yếu
tố của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa như: sự cạnh tranh (kể cả cạnh
                                                                             9
http://luanvan.forumvi.com       email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

tranh không lành mạnh), phá sản, tình trạng thất nghiệp, sự phân hoá mạnh của
các mức lương, sự phân hoá về thu nhập, mức sống của xã hội và các tầng lớp
dân cư. Vì vậy cần thiết phải chấp nhận một sự phân biệt về tiền lương theo
vùng, ngành, theo kết quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp.
1.4. Yêu cầu và các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức tiền lương
      Tổ chức tiền lương là quá trình thực hiện chi trả cho người lao động theo
các yêu cầu và nguyên tắc của pháp luật hiện hành.
      Tổ chức tiền lương bao gồm toàn bộ quá trình từ việc xây dựng quỹ tiền
lương đến việc áp dụng các chế độ hình thức trả lương để phân phối đến tay
người lao động. Tổ chức tiền lương là một mảng quản lý rất phức tạp, đòi hỏi
kiến thức, kinh nghiệm và bảo đảm các nguyên tắc.
      • Nguyên tắc của tổ chức tiền lương
      - Trả lương như nhau cho những lao động như nhau
      Ở đây công bằng được hiểu theo công bằng dọc. Nguyên tắc được đưa ra
dựa trên cơ sở quy luật lao động theo phân phối theo lao động. Trong điều kiện
sản xuất như nhau (số lượng, chất lượng) người lao động phải được hưởng
lương ngang nhau không phân biệt giới tính, lứa tuổi, dân tộc. Nguyên tắc này
đã được đưa ra từ rất sớm. Ngay sau khi cách mạng tháng tám thành công, sắc
lệnh của Chủ tịch nước Việt nam dân chủ cộng hoà ghi rõ: "Công dân là đàn bà
hay trẻ em mà làm cùng một công việc như công dân đàn ông, được tính tiền
lương của công dân đàn ông."
      Và cho đến nay đây vẫn là một nguyên tắc được chú trọng hàng đầu trong
công tác tổ chức tiền lương. Nó có ý nghĩa quan trọng trong quản trị nhân lực
và tạo động lực lao động cho người lao động.
      - Tốc độ tăng tiền lương chậm hơn tốc độ tăng năng suất lao động
      Tiền lương bình quân tăng lên do nhiều yếu tố như năng suất lao động,
cải tiến công nghệ, tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu trong sản xuất. Do đó để có
thể tái sản xuất mở rộng, tăng tiền lương phải đảm bảo tăng chậm hơn tăng
năng suất lao động, tạo cơ sở giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh.
                                                                               10
http://luanvan.forumvi.com      email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

      Đối với nền kinh tế, thực chất mối quan hệ này là mối quan hệ giữa tiêu
dùng và tích luỹ hay giữa tốc độ phát triển của khu vực sản xuất tư liệu sản xuất
và khu vực sản phẩm tiêu dùng. Mức tăng của tổng sản phẩm xã hội (tư liệu
tiêu dùng + tư liệu sản xuất) lớn hơn mức tăng tiêu dùng làm cho sản phẩm xã
hôi tính bình quân theo đầu người tăng lên, năng suất lao động tăng nhanh hơn
tiền lương. Nguyên tắc này mang tính kinh tế nên cần được duy trì tuyệt đối,
nhằm đảm bảo sư tồn tại và phát triển của các donah nghiệp và của cả xã hội.
      - Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao động
làm trong các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau trong nền kinh tế quốc dân
      Cơ sở của nguyên tắc này là đảm bảo kết hợp hài hoà giữa quá trình phân
công lao động và phát triển xã hội. Tính phức tạp về kỹ thuật giữa các ngành
trong nền kinh tế quốc dân đòi hỏi trình độ lành nghề của người lao động là
khác nhau dẫn đến tiền lương bình quân của các ngành là khác nhau. Nguyên
tắc này khẳng định một sự phân biệt cần thiết các điều kiện lao động nhằm phục
vụ chính sách kinh tế xã hội. Mức lương cao hơn với một yêu cầu về kỹ năng,
trình độ, kinh nghiệm sẽ thúc đẩy người lao động tự học hỏi, tích luỹ kinh
nghiệm và nâng cao năng suất lao động.Nguyên tắc này thể hiện tính xã hội của
tiền lương, do đó không thể coi nhẹ. Nó bao hàm ý nghĩa kinh tế của mỗi ngành
trong nền kinh tế quốc dân. Xét trong tòan bộ nền kinh tế, mỗi ngành có một vai
trò khác nhau trong các giai đoạn, thời kỳ phát triển khác nhau. Những ngành
có vai trò quan trọng, mang tính mũi nhọn được chú trọng cần được tập trung
tài nguyên, nhân lực để thúc đẩy phát triển kéo theo sự phát triển của các ngành
khác và các ngành mũi nhọn đó được áp dụng hưởng mức lương cao hơn so với
các ngành khác. Sự khác nhau về môi trường, khí hậu, dân cư, giá cả sinh hoạt
sẽ tạo ra sự chênh lệch nội dung. Sự khác nhau đó được bù lại bằng chế độ
chính sách mà tiền lương là một phần trong đó. Nguyên tắc này đã được cụ thể
hoá trong Bộ Luật Lao động nước ta.



                                                                                11
http://luanvan.forumvi.com      email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

        Mỗi nguyên tắc trên đây phản ánh một khía cạnh khác nhau của tiền
lương, chúng kết hợp hài hoà và bổ sung cho nhau một cách thống nhất và tạo
ra vai trò quan trọng của tiền lương.
        • Yêu cầu của tổ chức tiền lương
        - Bảo đảm tái sản xuất sức lao động và không ngừng nâng cao đời sống
vật chất cho người lao động
        Sức lao động là năng lực lao đông, là toàn bộ thể lực và trí lực của con
người. Sức lao động thể hiện ở trạng thái thể lực và tinh thần trạng thái tâm,
sinh lý thể hiện ở trình độ nhận thức, kỹ năng lao động. Sức lao động là một
trong 3 yếu tố của quá trình sản xuất, nó là yếu tố quan trọng nhất vì sức lao
động có khả năng phát động và đưa các tư liệu lao động, đối tượng lao động và
quá trình sản xuất.
        - Làm cho năng suất lao động không ngừng nâng cao
        Tiền công là đòn bẩy quan trọng để nâng cao năng suất lao động, tạo cơ
sở quan trọng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Do đó, tổ chức tiền lương phải đạt
được yêu cầu là làm tăng năng suất lao động. Mặt khác đây cũng là yêu cầu đặt
ra với việc phát triển, nâng cao trình độ và khả năng của người lao động.
        - Phải đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu
        Tổ chức tiền lương luôn là vấn đề phức tạp, tuy nhiên cần phải rõ ràng, dễ
hiểu để người lao động nhận thấy được sự công bằng, khách quan trong tiền
lương.
        - Phải hợp pháp
        Tổ chức tiền lương trong bất kỳ một doanh nghiệp nào trên lãnh thổ Việt
nam cũng đều phải tuyệt đối chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật Việt Nam. Bộ
Luật Lao động nước ta cũng đã có một chương quy định về các vấn đề xung
quanh công tác xây dựng và quản lý tiền lương trong các doanh nghiệp Nhà
nước.
1.5. Các yếu tố chi phối tiền lương


                                                                                 12
http://luanvan.forumvi.com        email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

       Khi tổ chức tiền lương cần phải nghiên cứu kỹ các yếu tố xác định và ảnh
hưởng đến tiền lương nếu không tiền lương sẽ mang tính chủ quan và thiên
lệch. Các yếu tố chi phối tiền lương , đó là:
   - Giá trị công việc
   - Trình độ phát triển kinh tế chung của đất nước và của từng vùng
   - Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và cá nhân trong từng thời
       kỳ
   - Mô hình phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp
   - Thâm niên làm việc trong doanh nghiệp
   - Các khoản chi phí khác về tiền lương (nếu có).
     Sơ đồ các yếu tố ảnh hưởng đến tiền lương:


                                  Công việc
                              Kỹ năng
                              Nỗ lực
                              Trách nhiệm
                              Điều kiện làm việc
       Xã hội                                                 Công ty
 -Cung cầu lao
 động                                                     -Định mức
 -Điều kiện KT                                            LĐKT
 quốc gia                       Tiền lương,               -Khả năng chi
 -Giá cả sinh                    thu nhập                 trả
 hoạt                                                     -Chính sách
 -Luật pháp                                               chiến lược
 -Quan niệm                                               -Đặc điểm hoạt
 thành kiến                                               động
                              Người lao động
                            Kinh nghiệm
                            Khả năng phát triển
                            Thâm niên làm việc
                            Thái độ tinh thần



2. Quản lý Nhà nước về tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà
nước
                                                                              13
http://luanvan.forumvi.com       email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

2.1.Quản lý Nhà nước về tiền lương
     Chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính
sách kinh tế xã hội của đất nước. Chính sách này liên quan trực tiếp đến lợi ích
của đông đảo người lao động trong xã hội và được Nhà nước quản lý. Nhà nước
quản lý thống nhất về tiền lương. Đối với người lao động là công nhân viên
chức, Nhà nước trực tiếp quản lý tiền lương (theo các chỉ tiêu cụ thể về đối
tượng hưởng lương, bậc lương và tiền lương tối thiểu). Nhà nước cũng thực
hiện một cơ chế kiểm soát trong thực hiện chính sách và chế độ tiền lương, trên
cơ sở luật pháp về tiền lương, các hợp đồng lao động và thuế thu nhập. Đối với
người lao động không phải là công nhân viên chức Nhà nước, Nhà nước cũng
thực hiện quản lý và kiểm soát tiền lương trên cơ sở luật pháp về lao động và
tiền lương.
     * Việc quản lý Nhà nước về tiền lương được phân cấp thực hiện như sau :
     - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan quản lý Nhà nước về
        tiền lương ở cấp cao nhất. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban
        hành các văn bản pháp luật để hướng dẫn các doanh nghiệp phương
        pháp xây dựng đơn giá tiền lương, các thông số tiền lương và các hệ số
        điều chỉnh cần thiết và thông báo các thông tin cần thiết về tiền lương
        trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Qua đó chỉ đạo việc quản lý tiền
        lương của các Bộ, ngành và địa phương trong toàn quốc.
     - Các Bộ quản lý ngành, các đại phương (cấp tỉnh, thành phố) có trách
        nhiệm và quyền hạn quản lý công tác tiền lương của các doanh nghiệp,
        cơ quan trong phạm vi của mình trên cơ sở chỉ đạo của Bộ LĐ -
        TB&XH. Trong đó, phải báo cáo thường xuyên lên Bộ LĐ - TB&XH
        về công átc quản lý tiền lương tại Bộ, ngành mình.
     - Các doanh nghiệp có trách nhiệm thực hiện công tác lao động, tiền
        lương theo quy định, trong đó công tác tổ chức, xây dựng đơn giá và
        thực hiện các thủ tục hành chính cần thiết trong hoạt động tiền lương;


                                                                               14
http://luanvan.forumvi.com      email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

           và báo cáo lên cơ quan quản lý cấp trên về tiền lương và thu nhập của
           doanh nghiệp mình.
        * Quản lý tiền lương, thu nhập của Nhà nước có những nội dung cụ thể
sau :
        - Nghiên cứu ban hành hệ thống văn bản pháp lý về tiền lương, thu nhập
           như :
        + Từng thời kỳ ban hành mức tiền lương tối thiểu chung, mức tiền lương
tối thiểu theo khu vực, mức tiền lương tối thiểu theo vùng;
        + Xác định hệ thống thước đo giá trị thông qua hệ thống thang lương, bảng
lương, chế độ phụ cấp lương;
        + Quy định các chế độ trả lương và cơ chế quản lý tiền lương của từng khu
vực;
        + Ban hành các tiêu chuẩn nghề, tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật công nhân,
tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và các phương pháp xây dựng định mức lao
động tổng hợp cho các thành phần kinh tế.
        - Xây dựng chương trình mục tiêu, chủ trương, phương hướng, kế hoạch
           về tiền lương, tiền công chung và của từng thành phần kinh tế cho từng
           thời kỳ.
        - Tổ chức kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chính sách tiền lương, thu
           nhập, các tiêu chuẩn, định mức trong các thành phần kinh tế nói chung
           cũng như các doanh nghiệp nói riêng.
2.2.Quản lý Nhà nước về tiền lương đối với doanh nghiệp Nhà nước
         Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, Nhà nước phải
đứng trên giác độ chung để quản lý lao động, tiền lương trong phạm vi toàn xã
hội nhưng đồng thời Nhà nước cũng phải tăng cường biện pháp quản lý tiền
lương đối với doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả, ổn định việc làm, thu nhập cho người
lao động và tiếp tục phát triền giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.


                                                                                15
http://luanvan.forumvi.com        email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

      Khi nói đến quản lý tiền lương, thu nhập trong doanh nghiệp Nhà nước là
nói đến việc xác định quan hệ phân phối lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp
và người lao động. Nói đến quan hệ phân phối thì chính là nói đến sở hữu, đến
vai trò quyết địnhcủa chủ sở hữu, đến mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền
sử dụng. Sở hữu là vấn đề cốt lõi trong quan hệ sản xuất, vì người nào nắm
quyền sở hữu thì người đó sẽ có quyền chiếm dụng, quyền định đoạt và quyền
hưởng thụ. Cũng vì lẽ đó, sở hữu là xuất phát điểm, làm cơ sở cho chủ sở hữu
quyết định sẽ quản lý tài sản của mình ra sao, sẽ phân phối kết quả sản xuất
kinh doanh mà tài sản đó mang lại như thế nào.
      Trong kinh tế quốc doanh, tính chất sở hữu ở đây chính là sở hữu toàn
dân mà Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu do vậy đương nhiên Nhà nước
đóng vai trò quyết định chính sách phân phối. Nhưng vấn đề đặt ra trong quá
trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước thì Nhà nước quản lý như thế nào, quản
lý đến đâu và cụ thể là ai?
      Trong thời kỳ quản lý tập trung chúng ta đã tuyệt đối hoá vai trò của Nhà
nước. Trung ương quyết định tất cả, quản lý tất cả, trong lĩnh vực lao động, tiền
lương quyết định từ tuyển dụng, đào tạo đến mức lương, tổng quỹ lương... của
doanh nghiệp. Sự tuyệt đối hoá có tính quan liêu này đã phải trả giá không nhỏ
là triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Nhà
nước trở thành chỗ dựa vững chắc cho các doanh nghiệp tồn tại, tiền lương do
Ngân sách chi trả mang nặng tính bình quân, không gắn với năng suất, hiệu quả
của từng người, của từng doanh nghiệp.
      Nhận thấy những tồn tại trên, từ những năm đầu của thập kỷ 80 chúng ta
đã bắt đầu đổi mới tổ chức, quản lý doanh nghiệp, bước đầu tách hai chức năng
sở hữu và kinh doanh. Song xác định ai là người cụ thể đại diện chủ sở hữu
trong doanh nghiệp qua thực tiễn đổi mới vừa qua cho thấy không phải là việc
dễ dàng, nhiều công trình khoa học còn đang tiếp tục nghiên cứu để xác định rõ
vấn đề này. Ở đây cần lưu ý một điều là không được hiểu lẫn lộn giữa Nhà nước
sở hữu và Nhà nước kinh doanh trực tiếp. Nếu hiểu Nhà nước nói chung thì
                                                                                16
http://luanvan.forumvi.com      email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

không những không tạo điều kiện tách hai chức năng sở hữu và kinh doanh mà
sẽ dẫn đến tình trạng Nhà nước bao biện, làm thay cho doanh nghiệp, còn doanh
nghiệp thì thiếu chủ động như trước đây. Nếu coi nhẹ mặt sở hữu sẽ dẫn đến
thất thoát, lãng phí và đồng vốn thuộc sở hữu Nhà nước đạt hiệu quả thấp.
      Từ thời kỳ kế hoạch hoá tập trung đến nay trong phạm vi một ngành, một
vùng chúng ta vẫn xác định chủ sở hữu là các Bộ, ngành đối với doanh nghiệp ở
Trung ương và địa phương đối với những doanh nghiệp ở địa phương. Nhưng
khi thực hiện đang có sự xâm lấn nhau trong chức năng giữa cơ quan quản lý
Nhà nước và doanh nghiệp. Một mặt các cơ quan quản lý Nhà nước quản lý
không chặt những vấn đề cần quản lý đối với các doanh nghiệp Nhà nước mà
thường hay can thiệp sâu vào công việc quản lý tác nghiệp của doanh nghiệp.
Mặt khác các doanh nghiệp ngoài chức năng kinh doanh lại còn được giao thực
hiện một số công việc thuộc chức năng của các cơ quan quản lý Nhà nước. Việc
can thiệp sâu vào công việc quản trị kinh doanh đã làm cho các doanh nghiệp
tiếp tục ỷ lại Nhà nước, không phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách
nhiệm, không có khả năng đưa ra những giải pháp kịp thời cho những cơ hội
làm ăn của mình, đồng thời đã làm cho các cơ quan chủ quản không tập trung
được sức lực thời gian để thực hiện chức năng của chính mình là quản lý các
doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh theo đúng hướng
phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, tuân thủ đúng pháp luật.
      Những vấn đề nêu trên cho thấy vấn đề chủ sở hữu trong doanh nghiệp
vẫn chưa có giải pháp rõ ràng, giữa Nhà nước, Giám đốc và tập thể người lao
động vẫn còn đan xen chưa có sự phân định minh bạch.
      Do vấn đề chủ sở hữu chưa được xác định rõ ràng nên chính sách phân
phối nói chung và chính sách tiền lương nói riêng đối với doanh nghiệp trong
giai đoạn này còn nhiều quan điểm chưa phù hợp.
      Tháng 4/1995 Luật doanh nghiệp đã được Quốc hội thông qua đã qui
định rõ chủ sở hữu đối với tài sản công trong doanh nghiệp Nhà nước là Chính
phủ, đồng thời cho phép Chính phủ phân cấp hoặc uỷ quyền cho các Bộ, ngành
                                                                             17
http://luanvan.forumvi.com       email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

và Ủy ban thực hiện một số quyền này. Còn đối với doanh nghiệp, dù kinh
doanh hay hoạt động công ích, chỉ được quyền quản lý, sử dụng vốn và tài sản
của Nhà nước giao để thực hiện nhiệm vụ của mình và tự chịu trách nhiệm về
toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh trong phạm vi doanh nghiệp quản lý.
      Luật doanh nghiệp nhà nước đã xác định rõ quyền sở hữu và quyền sử
dụng vốn và tài sản trong doanh nghiệp. Vì vậy vấn đề quản lý Nhà nước về
tiền lương, thu nhập đối với các doanh nghiệp cũng phải xác định phù hợp với
quyền sở hữu của Nhà nước.
      Trước hết, Nhà nước giữ vai trò quy định chính sách tiền lương để các
doanh nghiệp áp dụng;
      Tiếp đến, Nhà nước quản lý thống nhất thông qua những biện pháp gián
tiếp như ở giới hạn thấp nhất quy định tiền lương tối thiểu, ở giới hạn cao nhất
thì điều tiết thông qua thuế thu nhập. Biện pháp trực tiếp như xác định yếu tố
đầu vào chi phí tiền lương của sản phẩm, dịch vụ hoặc chính sách phân chia lợi
nhuận.
      Trong phạm vi nguồn quỹ thu nhập gồm quỹ tiền lương, quỹ tiền thưởng
doanh nghiệp được quyền trả lương cho người lao động theo năng suất và mức
độ đóng góp của từng người.
      Tóm lại vai trò của Nhà nước về quản lý tiền lương đối với doanh nghiệp
là hết sức cần thiết nhưng nội dung, phương pháp quản lý phải phù hợp với kinh
tế thị trường.
                                 Chính phủ




                                Bộ Lao động -
                              Thương binh và xã
   Địa phương                                               Các Bộ, ngành
                                     hội
Mô hình tổ chức quản lý tiền lương hiện nay như sau :



                                                                               18
http://luanvan.forumvi.com       email: luanvan84@gmail.com
Doanh nghiệp địa              Tổng Công ty hạng          Doanh nghiệp thuộc
    phương                         đặc biệt                các Bộ, ngành
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com




2.3. Cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước:
      Để đáp ứng đòi hỏi của cơ chế quản lý kinh tế mới, Chính phủ đã ban
hành Nghị định 26/CP ngày 25/03/1993 và Nghị định 28/CP ngày 28/3/1997 về
đổi mới quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước. Trong
đó Nhà nước không trực tiếp quản lý quỹ tiền lương của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp có quyền tự xây dựng quỹ tiền lương thông qua đơn giá tiền lương được
Nhà nước giao (trên cơ sở doanh nghiệp đã xác định đơn giá và có sự điều
chỉnh của Nhà nước sao cho phù hợp với điều kiện của từng ngành, lĩnh vực,
điều kiện thực tế và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có tính đến
giá cả sức lao động trên thị trường).
      Việc quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước
được quy định như sau :
2.3.1. Nguyên tắc chung:
     - Các sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp nhà nước đều phải có định mức
lao động và đơn giá tiền lương. Đơn giá tiền lương phải được xây dựng trên cơ
sở định mức lao động trung bình tiên tiến của doanh nghiệp và các thông số tiền
                                                                              19
http://luanvan.forumvi.com       email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

lương do Nhà nước quy định. Khi thay đổi về định mức lao động và các thông
số tiền lương thì thay đổi đơn giá tiền lương.
     - Tiền lương và thu nhập phụ thuộc vào thực hiện khối lượng sản phẩm,
        dịch vụ, năng suất, chất lượng lao động và hiệu quả sản xuất, kinh
        doanh. Tốc độ tăng tiền lương phải thấp hơn tốc độ tăng năng suất lao
        động.
     - Tiền lương và thu nhập của người lao động phải được thể hiện đầu đủ
        trong Sổ lương của doanh nghiệp theo mẫu thống nhất do Bộ Lao động-
        Thương binh và Xã hội ban hành.
     - Quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi của doanh nghiệp được thực hiện
        theo khoản 4 và 5, Điều 33, Quy chế quản lý tài chính và hạch toán
        kinh doanh đối với doanh nghiệp Nhà nước ban hành kèm theo Nghị
        định số 59/CP      ngày 03/10/1996 của Chính phủ và Nghị định số
        27/1999/NĐ-CP ngày 20/4/1999 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quy
        chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà
        nước (ban hành kèm theo Nghị định số 59/CP ngày 03/10/1996 của
        Chính phủ).
     - Nhà nước quản lý tiền lương và thu nhập thông qua quản lý định mức
        lao động, đơn giá tiền lương và tiền lương thực hiện của doanh nghiệp.
2.3.2. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước:
   * Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội:
   - Trước tháng 4 hàng năm, thẩm định và giao đơn giá tiền lương cho các
doanh nghiệp xếp hạng đặc biệt sau khi trao đổi ý kiến với Tổng cục quản lý
vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp của Bộ Tài chính
   - Hằng năm tổng hợp tình hình giao đơn giá tiền lương của tất cả các doanh
nghiệp nhà nước từ Trung ương đến địa phương
   - Thông báo mức lương bình quân chung của các doanh nghiệp được nhà
nước giao đơn giá tiền lương vào cuối quý II, đầu quý III hằng năm làm cơ sở


                                                                                 20
http://luanvan.forumvi.com       email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

xác định lương bình quân thực hiện tối đa của các doanh nghiệp theo quy định
tại khoản 2, điều 5 Nghị định số 28/CP ngày 28/3/1997 của Chính phủ.
   - Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện, xây dựng đơn giá tiền lương và quản lý
tiền lương, thu nhập của các doanh nghiệp thuộc Bộ quản lý ngành, lĩnh vực,
các Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
    * Đối với các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực:
      - Trước tháng 4 hằng năm, thẩm định và giao đơn giá tiền lương cho các
doanh nghiệp thuộc quyền quản lý
      - Phối hợp với Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, thẩm định đơn giá
tiền lương cho các Tổng công ty thành lập theo quyết định số 90/TTg ngày
7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ được xếp doanh nghiệp hạng đặc biệt
      - Kiểm tra việc xây dựng, thực hiện đơn giá tiền lương và quản lý lao
động, tiền lương, thu nhập của các doanh nghiệp thuộc quyền
   * Uỷ ban nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo để
Sở Lao động- Thương binh và Xã hội phối hợp với các Sở quản lý ngành,
lĩnh vực:
      - Hướng dẫn các doanh nghiệp thuộc quyền quản lý của địa phương để
xây dựng đơn giá tiền lương theo quy định tại Thông tư 13/LĐTB&XH-TT
ngày 10/4/4997
      - Trước tháng 4 hàng năm, thẩm định và giao đơn giá tiền lương cho
các doanh nghiệp nhà nước và các Công ty cổ phần có trên 50% vốn do
doanh nghiệp nhà nước góp thuộc quyền quản sau khi trao đổi quản lý vốn
và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp ở địa phương.
      - Thanh tra kiểm tra việc xây dựng, thực hiện đơn giá tiền lương và
quản lý lao động, tiền lương, thu nhập của các doanh nghiệp trực thuộc địa
phương.
   * Cán bộ quản lý ngành, lĩnh vực và các Sở Lao động -Thương binh
và Xã hội Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm:


                                                                              21
http://luanvan.forumvi.com     email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

      - Chậm nhất vào tháng 5 hàng năm, báo cáo về Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội tình hình đơn giá tiền lương hàng năm kế hoạch
cho các doanh nghiệp thuộc quyền quản lý và tình hình lao động, tiền
lương, thu nhập thực hiện năm trước của các doanh nghiệp theo mẫu số 1
và mẫu số 2 kèm theo thông tư 13/LĐTBXH-TT ngày 10/4/1997.
      - Tổ chức và củng cố bộ phận chuyên trách làm công tác lao động -
tiền lương, bố trí, bồi dưỡng cán bộ có đủ trình độ, nghiệp vụ chuyên môn
thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, yêu cầu của công tác thẩm định, quản lý định
mức lao động và đơn giá tiền lương theo quy định của Chính phủ và hướng
dẫn tại thông tư 13/LĐTBXH-TT ngày 10/4/1997.
2.3.3. Trách nhiệm của doanh nghiệp
    * Về tổ chức công tác lao động tiền lương:
    - Để thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, yêu cầu của công tác quản lý theo Bộ
Luật lao động và Luật doanh nghiệp Nhà nước; thực hiện việc xây dựng
định mức lao động, tổ chức và phân công lao động, xây dựng đơn giá tiền
lương và phân phối tiền lương gắn với năng suất, chất lượng, hiệu quả
kinh doanh của đơn vị và cá nhân người lao động, các doanh nghiệp phải
tổ chức, củng cố bộ phận chuyên trách làm công tác lao động - tiền lương
của doanh nghiệp, bố trí và bồi dưỡng cán bộ có đủ trình độ nghiệp vụ,
chuyên môn thực hiện công việc theo yêu cầu.
   * Về xây dựng đơn giá tiền lương:
    - Đối với doanh nghiệp Nhà nước nói chung:
Giám đốc doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo xây dựng và đăng
ký định mức lao động theo quy định.
    - Đối với doanh nghiệp được xếp hạng đặc biệt:
   Tổng Giám đốc có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo xây dựng và đăng ký
mức lao động theo hướng dẫn tại Thông tư số 14/LĐTBXH-TT ngày
10/4/1997 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; xây dựng đơn giá tiền
lương báo cáo Hội đồng quản trị hoặc Bộ quản lý ngành, lĩnh vực (nếu là
                                                                        22
http://luanvan.forumvi.com     email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

tổng Công ty 90/TT được xếp hạng đặc biệt) xem xét, có công văn gửi Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội đề nghị thẩm định và giao đơn giá tiền
lương.
      Các doanh nghiệp phải tiến hành xây dựng đơn giá tiền lương từ quý
IV năm báo cáo để gửi cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền kịp thẩm
định và giao đơn giá tiền lương vào quý I năm kế hoạch.
   * Thủ tục hành chính đề nghị duyệt đơn giá tiền lương:
    Theo phân cấp và tổ chức quản lý, sau khi xây dựng đơn giá tiền
lương, doanh nghiệp có công văn gửi cơ quan có thẩm quyền thẩm định và
giao đơn giá tiền lương theo quy định tại điểm 2 nói trên;
    Công văn gửi kèm các biểu sau:
- Biểu trình xây dựng đơn giá tiền lương theo mẫu số 3a và số 3b.
- Đối với doanh nghiệp có nhiều đơn vị thành viên và có nhiều đơn giá tiền
lương thì lập biểu tổng hợp đơn giá tiền lương theo mẫu số 4.
   * Báo cáo tình hình thực hiện lao động, tiền lương và thu nhập.
     Vào quý I chậm nhất là tháng 4 năm kế hoạch, doanh nghiệp phải báo
cáo cho cơ quan có thẩm quyền giao đơn giá tình hình thực hiện lao động,
tiền lương và thu nhập của năm trước liền kề theo mẫu số 5 kèm theo Thông
tư 13/ LĐTBXH-TT ngày 10/4/1997.
2.3.4. Xác định quỹ tiền lương thực hiện theo kết quả sản xuất kinh
doanh.
   * Điều kiện xác định quỹ tiền lương thực hiện:
   - Các chỉ tiêu tổng sản phẩm hàng hoá (kể cả sản phẩm quy đổi), tổng
doanh thu, chi phí, lợi nhuận thực hiện được xác định theo quy chế quản lý
tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp Nhà nước ban hành
kèm theo nghị định số 59/ CP ngày3/10/1996 của Chính phủ. Trong các chỉ
tiêu nêu trên, nếu có yếu tố tăng hoặc giảm do nguyên nhân khách quan,
không tính đến khi xây dựng đơn giá tiền lương thì phải loại trừ khi xác
định quỹ tiền lương thực hiện.
                                                                         23
http://luanvan.forumvi.com       email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

   - Trước khi xác định quỹ tiền lương thực hiện, doanh nghiệp phải đánh
giá và xác định các khoản nộp ngân sách Nhà nước, lợi nhuận thực hiện và
so sánh với năm trước đó. Nếu các chỉ tiêu này không đảm bảo đủ điều kiện
được áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm theo quy định tại tiết b.3, điểm 2
mục III của thông tư 13/ LĐTBXH-TT ngày 10/4/1997 thì doanh nghiệp
phải trừ lùi quỹ tiền lương thực hiện cho đến khi đảm bảo đủ điều kiện theo
quy định nói trên.
   * Xác định quỹ tiền lương thực hiện :
    - Căn cứ vào đơn giá tiền lương do cơ quan có thẩm quyền giao và kết
quả sản xuất, kinh doanh, quỹ tiền lương được xác định như sau :
          Vth = (Vđg x Csxkd) + Vpc +Vbs + Vtg
 Trong đó :
     Vth : Quỹ tiền lương thực hiện
     Vđg : Đơn giá tiền lương do cơ quan có thẩm quyền giao
       Csxkd : Chỉ tiêu sản xuất kinh doanh theo tổng sản phẩm hàng hóa
thực hiện, hoặc doanh thu (doanh số thực hiện), hoặc tổng thu trừ tổng chi
(không có tiền lương), hoặc lợi nhuận thực hiện ứng với chỉ tiêu giao đơn
giá tiền lương
     Vpc : Quỹ các khoản phụ cấp lương và các chế độ khác (nếu có) không
được tính trong đơn giá trong quy định (ví dụ : phụ cấp thợ lặn, chế độ
thưởng an toàn hàng không...), tính theo số lao động thực tế được hưởng
ứng với từng chế độ.
      Vbs : Quỹ tiền lương bổ sung, chỉ áp với các doanh nghiệp được giao
đơn giá tiền lương theo đơn vị sản phẩm. Quỹ tiền lương bổ sung trả cho
thời gian thực tế không tham gia sản xuất được hưởng lương theo chế độ
quy định của số công nhân viên trong doanh nghiệp, mà khi xây dựng định
mưc lao dộng không tính đến, bao gồm : quỹ tiền lương nghỉ phép năm,
nghỉ việc riêng, nghỉ lễ tết, nghỉ theo chế đọ lao động nữ, hội họp, học tập...
theo quy định của Bộ luật Lao động
                                                                              24
http://luanvan.forumvi.com     email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

      Vtg : Quỹ tiền lương làm thêm giờ được tính theo số giờ thực tế làm
thêm nhưng không vượt quá quy định của Bộ Luật lao động.
     - Khi quyết toán quỹ tiền lương thực hiện theo đơn giá được giao, nếu
tiền lương thực hiện bình quân của người lao động (tính theo số lao động
định mức) trong doanh nghiệp cao hơn 2 lần mức lương bình quân chung do
Bộ LĐTBXH thông báo thì doanh nghiệp chỉ được quyết toán tổng quỹ tiền
lương thực hiện ững với mức tiền lương bình quân của lao động (tính theo
số lao động định mức) trong doanh nghiệp bằng hai lần mức lương bình
quân được thông báo.
     - Các doanh nghiệp chưa xây dựng định mức lao động và chưa có đơn
giá tiền lương được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì quỹ tiền
lương thực hiện được xác định theo số lao động thực tế bình quân sử dụng
nhân với hệ số mức lương bình quân của doanh nghiệp do cơ quan có thẩm
quyền giao đơn giá quyết định với mức lương tối thiểu chung do Chính phủ
quy định (tại thời điểm thực      hiện từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 là
210.000đ/tháng).
     Tổng quỹ tiền lương thực hiện được xác định nói trên là chi phí hợp lệ
trong giá thành hoặc phí lưu thông, đồng thời làm căn cứ để xác định lợi tức
chịu thuế của doanh nghiệp.
2.3.5. Giao đơn giá tiền lương và quy chế phân phối, trả lương trong
doanh nghiệp.
     * Giao đơn giá tiền lương trong doanh nghiệp.
Căn cứ vào đơn giá tiền lương do cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, trên cơ
sở cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, sau khi trao đổi ý kiến với ban chấp hành Công Đoàn cùng
cấp, Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc các doanh nghiệp (đối với
doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị), xem xét và giao đơn giá tiền
lương cho các đơn vị thành viên (hạch toán độc lập hoặc phụ thuộc).
    Việc giao đơn giá tiền lương cần chú ý một số nội dung sau:
                                                                           25
http://luanvan.forumvi.com     email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

    - Đơn giá tiền lương được giao phải gắn với chỉ tiêu kế hoạch sản xuất,
kinh doanh có hiệu quả nhất;
    - Hệ số điều chỉnh tăng thêm để tính đơn giá tiền lương cho từng đơn vị
thành viên có thể khác nhau tuỳ vào hiệu quả sản xuất, kinh doanh nhưng
không vượt quá hệ số điều chỉnh tăng thêm tối đa là 1,5 lần so với mức tối
thiểu theo quy định tại mục III Thông tư 13/LĐTBXH - TT ngày 10 tháng 4
năm 1997.
    - Được trích lập quỹ lương dự phòng tối đa là 7% tổng quỹ tiền lương
kế hoạch (Vkh) để xây dựng đơn giá tiền lương được giao nhằm điều chỉnh
và khuyến khích các đơn vị thành viên hoàn thành kế hoạch sản xuất, kinh
doanh của cả doanh nghiệp. Quỹ dự phòng này phải được phân bổ hết trước
khi quyết toán tài chính năm:
    - Sau khi quyết toán tài chính, nếu quỹ tiền lương thực hiện theo đơn
giá được giao thì phần chênh lệch được trích lập quỹ dự phòng cho năm sau
nhằm ổn định thu nhập của người lao động trong trường hợp sản xuất, kinh
doanh giảm do những nguyên nhân bất khả kháng. Mức quỹ dự phòng do
Giám đốc thoả thuận với ban chấp hành công đoàn cùng cấp quyết định và
không được sử dụng vào mục đích khác;
    - Việc giao đơn giá và quỹ tiền lương kế hoạch cho các đơn vị thành
viên khi tổng hợp lại không vượt quá đơn giá và quỹ tiền lương kế hoạch do
cấp có thẩm quyền phê duyệt.
    * Quy chế phân phối và trả lương trong các đơn vị thành viên:
    - Căn cứ vào đơn giá tiền lương được giao, các đơn vị thành viên có
toàn quyền phân phối quĩ tiền lương và trả lương gắn với năng xuất, chất
lượng và hiệu quả sản xuất, kinh doanh cho từng đơn vị, bộ phận và cá nhân
người lao động thuộc quền quản lý trên cơ sở quy chế phân phối, trả lương.
    Bản quy chế phân phối, trả lương cho đơn vị thành viên phải được tổ
chức công đoàn cùng cấp thoả thuận trước khi ban hành và phổ biến đến
từng người lao động. Sau đó đăng ký với Sở Lao động-Thương Binh và xã
                                                                             26
http://luanvan.forumvi.com      email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

hội địa phương (nếu doanh nghiệp thuộc địa phương quản lý) hoặc với cơ
quan giao đơn giá tiền lương (nếu doanh nghiệp thuộc Trung ương quản lý).
    - Việc quy định trả lương cho từng bộ phận, cá nhân người lao động
theo qui chế chủ yếu phụ thuộc vào năng suất, chất lượng, hiệu quả công
tác, giá trị cống hiến của từng bộ phận, cá nhân người lao động, không phân
phối bình quân. Đối với lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao,
giỏi, giữ vai trò đóng góp quan trọng cho việc hoàn thành nhiệm vụ sản
xuất, kinh doanh của đơn vị thì mức tiền lương và thu nhập phải được trả
thoả đáng. Đối với lao động làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ, phục vụ
giản đơn, phổ biến thì mức lương trả cần cân đối với mức lương của lao
động trên cùng địa bàn, không tạo ra sự chênh lệch thu nhập quá bất hợp lý,
gây mất cân bằng xã hội. Chênh lệch về tiền lương và thu nhập giữa lao
động phục vụ, giản đơn với lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao,
giỏi trong nội bộ đơn vị do đơn vị xem xét qui định cho phù hợp, bảo đảm
chống phân phối bình quân.
     Tóm lại, cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập trong các doanh nghiệp
nhà nước được thể hiện trên những điểm sau:
     - Mức tiền lương tối thiểu, hệ thống thang, bảng lương, các chế độ phụ
cấp lương do Nhà nước ban hành làm căn cứ để thực hiện các vấn đề:
     + là thang giá trị để tính toán đơn giá tiền lương của doanh nghiệp
     + là căn cứ tính toán thếu thu nhập doanh nghiệp
     + là cơ sở để thực hiện các chế độ BHXH, BHYT
     - Về cơ chế tiền lương:
     + Nhà nước xác định đơn giá tiền lương của doanh nghiệp ở đầu vào trên
cơ sở định mức lao động trung bình tiên tiến do doanh nghiệp xây dựng và các
thông số tiền lương do Nhà nước qui định
     + Bảo đảm quan hệ tiền lương hợp lý giữa các doanh nghiệp, tiền lương
thực hiện bình quân của các doanh nghiệp cao nhất không quá 3 lần tiền lương
bình quân chung của các doanh nghiệp được giao đơn giá tiền lương.
                                                                           27
http://luanvan.forumvi.com      email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

     + Căn cứ đơn giá tiền lương được giao và hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, Giám đốc được toàn quyền phân phối quỹ tiền lương và trả
lương cho người lao động. Giám đốc xây dựng quy chế trả lương, trả thưởng
cho người lao động trong doanh nghiệp trên cơ sở nguyên tắc phân phối theo
lao động, gắn tiền lương, tiền thưởng với năng suất, chất lượng và hiệu quả
công việc của từng người, khuyến khích những người có trình độ chuyên môn,
kỹ thuật cao, tay nghề giỏi.




                                                                          28
http://luanvan.forumvi.com     email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

II.       Ý NGHĨA CỦA VIỆC HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ TIỀN
          LƯƠNG, THU NHẬP TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ
          NƯỚC

1. Vai trò của việc xây dựng và quản lý tốt tiền lương
      * Người lao động nhận được mức lương thoả đáng sẽ là động lực kích thích
năng lực sáng tạo làm tăng năng suất lao động.
Muốn dẫn dụ ai làm việc theo ý ta chỉ có cách là làm cho họ phấn
khởi khi làm việc bằng cách tìm hiểu nhu cầu và ước vọng của họ. Người lao
động chỉ quan tâm đến công việc và tập trung hết sức vào công việc khi họ cảm
thấy hài lòng với tiền lương thích đáng, cuộc sống gia đình ổn định. Trách
nhiệm và tự giác chỉ có ở người lao động khi họ cảm thấy mình được quan tâm
và được tôn trọng. Năng suất lao động cao là sự kết hợp của sự tập trung, kỹ
năng trách nhiệm và tự giác. Ngược lại nếu tiền lương không thoả đáng sẽ dẫn
đến một loạt các vấn đề: lãng phí lao động, lãng phí nguyên vật liệu, di chuyển
lao động...
      * Tiền lương là nguồn cung ứng sự sáng tạo, sức sản xuất, năng lực sản xuất
trong quá trình sản sinh ra các giá trị gia tăng.
 Năng suất lao động tăng đồng nghĩa với lợi nhuận doanh ngiệp tăng do đó
nguồn phúc lợi của doanh nghiệp mà người lao động nhận lại cũng sẽ tăng. Đó
là phần bổ xung cho tiền lương, tăng thu nhập, tăng lợi ích của người lao động.
Hơn nữa khi lợi ích của người lao động được đảm bảo sẽ tạo ra sự gắn kết cộng
đồng những người lao động với mục tiêu và lợi ích của doanh nghiệp, xoá bỏ sự
ngăn cách giữa chủ và người làm thuê, làm cho người lao động có trách nhiệm
hơn đối với doanh nghiệp. Đó là phản ứng dây truyền tích cực của tiền lương.
Ngược lại nếu doanh nghiệp trả tiền lương không hợp lý hoặc vì mục tiêu lợi
nhuận thuần tuý mà không chú đến lợi ích người lao động thì nguồn nhân công
ssẽ có thể bị giảm sút về chất lượng làm hạn chế các động cơ cung ứng sức lao
động, nó được biểu hiện bằng tình trạng cắt xén thời gian làm việc, lãng phí
nguyên vật liệu và thời gian sử dụng thiết bị...
                                                                                29
http://luanvan.forumvi.com         email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

Mâu thuẫn giữa chủ và thợ sẽ có thể dẫn đến đình công, bãi công, đồng thời là
sự di chuyển lao động, doanh nghiệp mất đi những người lao động có trình độ
chuyên môn và tay nghề cao. Một nhà quản trị đã nói: " Nếu ta cắt xén của
những người làm công cho ta thì ngay lập tức họ sẽ cắt xén lại của ta và khách
hàng của ta."
 * Tăng mức lương với mục đích tối thiểu hoá các chi phí đầu vào của doanh
nghiệp.
Sức lao động là yếu tố đầu vào chính yếu của quá trình sản xuất kinh doanh cho
dù với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật các công nghệ mới được ra
đời và ứng dụng nhanh chóng vào sản xuất với mức độ cơ khí hoá, tự động hoá
tối đa thì vai trò lao động sống vẫn không thể phủ nhận mà nó ngày càng thể
hiện được tầm quan trọng của mình thông qua sức mạnh của trí tuệ trong việc
phát minh và ứng dụng các kỹ thuật vào quá trình sản xuất.
Sức lao động là cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp, nó kết hợp với các yếu tố
khác để tạo ra sản phẩm. Song theo nguyên tắc hình thành lợi nhuận sức lao
động lại là yếu tố phụ thuộc. Nó không quyết định mức sản lượng tối ưu mà
ngược lại mức sảnlượng tối ưu quyết định số lao động cần thuê. Kinh tế học gọi
nhu cầu về các yếu tố sản xuất nói chung và sức lao động nói riêng là nhu cầu
dẫn xuất, đó không phải là nhu cầu trực tiếp cuối cùng mà là nhu cầu được suy
ra từ các nhu cầu khác do mong muốn của doanh nghiệp trong việc sản xuất ra
sản phẩm.


    TL, TN của người             Năng suất lao            Chi phí LĐ/1
    lao động tăng                động tăng                SP giảm



            Lợi nhuận tăng              Chi phí TL/1 SP
                                        giảm



                                                                             30
http://luanvan.forumvi.com     email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

2. Ý nghĩa của việc hoàn htiện cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập trong
   các doanh nghiệp Nhà nước


      Các chức năng của tiền lương đã thể hiện vai trò rất quan trọng của nó;
nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay vai trò của tiền lương,
thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước lại càng thể hiện rõ hơn. Nên tất yếu
một đòi hỏi đặt ra là phải quản lý tốt tiền lương, thu nhập và ngày càng hoàn
thiện cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước
nhằm mục đích:
     + Đưa tiền lương trở thành thước đo giá trị sức lao động. tiền lương
gắn với năng suất, chất lượng và hiệu quả công viêc. Thực hiện triệt để
"tiền tệ hoá" tiền lương trong khu vực sản xuất kinh doanh.
     + Tiền lương đảm bảo tái sản xuất sức lao động, tiền lương trở thành
thu nhập chính, kích thích người lao động làm việc phát huy với mọi khả
năng tiềm tàng của con người. Từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh, phát huy vai trò đòn bẩy kinh tế của tiền lương.
     + Đảm bảo phân phối công bằng, hợp lý. Tiền lương phải trả theo lao
động, chống phân phối bình quân và đảm bảo quan hệ hợp lý về thu nhập
giữa các nghề, ngành.
     + Khắc phục những hạn chế của cơ chế quản lý cũ, để từ đó Nhà nước
quản lý và kiểm soát được tiền lương thu nhập bằng các công cụ điều tiết
thích hợp, củng cố trật tự kỷ cương pháp luật của Nhà nước.




                                                                              31
http://luanvan.forumvi.com     email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

                                  PHẦN II
   THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ TIỀN LƯƠNG, THU NHẬP
         TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.

I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC QUẢN LÝ TIỀN
LƯƠNG, THU NHẬP TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC .

1. Đặc điểm của các doanh nghiệp Nhà nước
     Sự phân biệt giữa hai chế độ Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa
được nhìn nhận thông qua tiềm lực kinh tế do ai nắm giữ. Trong xã hội tư
bản thì những tập đoàn kinh tế thì những tập đoàn tư bản mạnh nắm giữ
phần lớn của cải trong nền kinh tế quốc dân và đóng vai trò là kẻ thống trị
chi phối Nhà nước do nó tạo ra.
     Trong xã hội chủ nghĩa, Nhà nước là Nhà nước của dân, do dân và vì
dân chứ không phải là Nhà nước chịu sự chi phối của riêng tập đoàn kinh tế
tư bản nào. Để đóng vai trò là Nhà nước của dân thì ngoài chức năng quản
lý xã hội nói chung, cần và nhất định phải nắm giữ phần lớn tiềm lực kinh
tế đủ mạnh để chi phối nền kinh tế quốc dân, vì lợi ích của toàn dân tộc. Mà
trong đó các xí nghiệp quốc doanh do Nhà nước nắm giữ chiếm vị trí quan
trọng.
     Trong điều kiện kinh tế hiện nay, không chỉ có các xí nghiệp quốc
doanh mà còn có các xí nghiệp của các thành phần kinh tế khác cùng tồn
tại. Nếu các doanh nghiệp Nhà nước bị yếu thế so với các thành phần kinh
tế khác thì Nhà nước khó có thể hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của
mình và ý nghĩa một Nhà nước do dân, vì dân khó mà thực hiện được.
     Để các doanh nghiệp Nhà nước giữ được vai trò chủ đạo thì nó phải
đảm bảo những yêu cầu sau:
     - Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động thực sự có hiệu quả, góp phần
tăng ngân sách Nhà nước hoặc giảm tối đa phần bù lỗ (đối với các doanh


                                                                           32
http://luanvan.forumvi.com     email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

nghiệp thuộc lĩnh vực an ninh quốc phòng và các doanh nghiệp Nhà nước
đảm bảo trong các lĩnh vực công cộng).
     - Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu quả trong các lĩnh vực
then chốt chi phối nền kinh tế quốc dân (tài chính, tín dụng, ngân hàng, bưu
chính viễn thông, điện, xăng, dầu...)
     - Doanh nghiệp Nhà nước nắm vai trò then chốt, đi đầu trong các lĩnh
vực tiên tiến cao cấp
     - Doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò liên kết được các thành phần
kinh tế trong sự phát triển, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đồng thời làm gương cho sự thực hiện
nghiêm chỉnh pháp luật và các chế độ chính sách của Nhà nước.
     - Doanh nghiệp Nhà nước thực hiện có hiệu quả quan hệ đối ngoại,
tạo chỗ dựa vững chắc thực hiện chiến lược mới.
     - Góp phần giải quyết công ăn việc làm.
     Từ những đòi hỏi trên của công cuộc đổi mới doanh nghiệp Nhà nước
được định nghĩa như sau:
     Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh doanh do Nhà nước thành lập
đầu tư và quản lý với tư cách chủ sở hữu. Doanh nghiệp Nhà nước đồng
thời là một pháp nhân kinh tế, hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trước
pháp luật.
     Như vậy doanh nghiệp Nhà nước có những đặc điểm sau:
     - Nguồn vốn ban đầu do Nhà nước đầu tư.
     - Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo định hướng của Nhà nước
nhưng tự thực hiện hoạch toán kinh tế.
     Doanh nghiệp Nhà nước được giao quyền tự chủ trong các hoạt động
sản xuất kinh doanh nhưng phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà
nước. Do vậy để xác định mức thực mà các doanh nghiệp Nhà nước phải
đóng góp thì Nhà nước phải quản lý được các chi phí đầu vào và doanh thu
đầu ra trong đó có chỉ tiêu tiền lương.
                                                                           33
http://luanvan.forumvi.com     email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com



3. Đặc điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp Nhà nước
       Nhìn chung hiện nay cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ của các doanh
nghiệp Nhà nước đều đã quá lạc hậu.
       Trong tổng thu ngân sách, khu vực DNNN chiếm 60%. Tuy nhiên, theo
thời gian hình thành thì máy móc, thiết bị và phương tiện vận tải được sản xuất
cách đây trên 30 năm chiếm 15%, cách đây trên 10 năm chiếm 33%, cộng
chung là 48%, tờ 10 năm trở lại đây là 52%, trong đó tờ 1996 trở lại đây là
48%. Theo thời gian sử dụng thì có 50% tài sản sử dụng từ 1-5 năm còn 50% tài
sản sử dụng trên 5 năm.
       Theo đánh giá của Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường thì máy móc
thiết bị của chúng ta đã lạc hậu so với thế giới khoảng 20-30 năm.
      Trong các doanh nghiệp Nhà nước, năng suất lao động thấp và mức
tiêu hao nguyên vật liệu gấp từ 2 đến 3 lần so với doanh nghiệp nước ngoài
có máy móc thiết bị hiện đại. Có thể so sánh qua tỷ lệ vốn đầu tư cho một
lao động của doanh nghiệp Nhà nước 20-25 triệu đồng. Trong tỷ lệ này của
khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 45.000-102.000 USD/ một
chỗ làm việc, cao hơn nhiều so với khu vực Nhà nước. Nếu doanh nghiệp
Nhà nước hoạt động với năng suất chất lượng sản phẩm thấp, không có sức
cạnh tranh trên thị trường. Làm ăn thua lỗ cầm chừng là khó tránh khỏi, ảnh
hưởng đến việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ được Nhà nước giao,
đồng thời cũng ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động. Tiền lương thì
bị cắt xén chứ chưa nói đến tiền thưởng. Tiền lương chỉ ở mức tối thiểu.
      Tuy nhiên hiện nay, một số các doanh nghiệp, các tổng công ty được
trang bị những thiết những máy móc thiết bị hiện đại. Nhưng phần lớn chủ
yếu phần lớn chủ yếu vẫn là do độc quyền nên kết quả sản xuất kinh doanh
tốt, doanh thu cao, lợi nhuận lớn như xăng dầu, hàng không, điện... Thì khi
đó các doanh nghiệp lại tìm cách bớt xén, hợp lý hoá các khoản chi để phân
chia cho các cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp, thu nhập có doanh


                                                                              34
http://luanvan.forumvi.com     email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

nghiệp lên tới 4 - 5 triệu đồng, gấp hàng chục lần thu nhập của doanh
nghiệp có mức lương thấp.
3. Đặc điểm về lao động và bộ máy quản lý
     Mặc dù không còn là hệ thống doanh nghiệp duy nhất trong nền kinh
tế thị trường như trước kia nhưng hiện nay nhìn chung các doanh nghiệp
Nhà nước vẫn còn nắm giữ được phần lớn lao động kỹ thuật có trình độ bậc
cao, nhiều năm trong nghề được đào tạo có hệ thống có khả năng đảm nhận
những công việc đòi hỏi kỹ thuật cao, nếu biết khai thác và sử dụng có hiệu
quả thì đó cũng là một lợi thế của các doanh nghiệp Nhà nước so với các
loại hình doanh nghiệp khác. Nhưng với việc buộc các doanh nghiệp phải tự
hoạch toán kinh doanh, lời ăn lỗ chịu. Quỹ tiền lương không được cấp phát
từ nhân sách bằng số lao động nhân với hệ số cấp bậc công nhân và hệ số
phụ cấp bình quân như trước kia mà quỹ tiền lương sẽ phụ thuộc vào kết
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nên đã khiến cho một bộ phận
lớn người lao động phải nghỉ chờ việc hoăc chuyển sang các thành phần
kinh tế khác do doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.
     Trong bộ máy quản lý của doanh nghiệp chỉ có 3 người là viên chức
nhà nước, đó là giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng, là cầu nối giữa
Nhà nước và doanh nghiệp, được Nhà nước bổ nhiệm đứng ra giúp Nhà
nước quản lý doanh nghiệp và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được Nhà
nước giao, còn các bộ phận khác quan hệ với doanh nghiệp thông qua hợp
đồng lao động. Nhưng với bộ máy gián tiếp thì thường ký kết các hợp đồng
dài hạn. Còn người lao động trực tiếp thì tuỳ vào tình hình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp mà tăng thêm hay giảm bớt cho phù hợp với khối
lượng công việc.
4. Doanh nghiệp với vấn đề tiền lương:
    Bất cứ hoạt động sản xuất, kinh doanh nào của doanh nghiệp cũng phải
nhằm đến mục tiêu là lợi nhuận. Muốn đạt được mục tiêu này thì doanh
nghiệp phải tính toàn cụ thể các yếu tố chi phí, trong đó có chi phí lao động
                                                                            35
http://luanvan.forumvi.com     email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

cho phù hợp. Trong kinh tế thị trường doanh nghiệp phải nhận thức đúng
vai trò của mình với vấn đề tiền lương thể hiện cụ thể:
     - Trước hết doanh nghiệp phải coi việc xác định tiền lương và trả
lương có liên quan trực tiếp đến sự tồn tại, cạnh tranh và phát triển của
chính bản thân doanh nghiệp.
     - Trả lương cho người lao động là công việc của doanh nghiệp chứ
không phải của các ngành hoặc Chính phủ, vì vậy doanh nghiệp phải luôn
chủ động quản lý tiền lương và các chi phí có liên quan tốt hơn, đồng thời
đảm bảo việc trả lương nằm trong khuôn khổ luật pháp và chính sách tiền
lương của Nhà nước cho phép.
     Để quản lý tốt tiền lương thì doanh nghiệp phải có các qui định tốt về
tiền lương có thể điều chỉnh linh hoạt trong phạm vi doanh nghiệp và ít chịu
sự can thiệp từ bên ngoài. Hệ thống các quy định về tiền lương của doanh
nghiệp bao gồm các yếu tố sau:
     + Phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và nằm trong khuôn
khổ luật pháp quy định.
     + Có tính nhạy cảm để tạo ra công bằng và sự phát triển.
     + Dễ hiểu và không quá phức tạp.
     + Phải được xây dựng trên cơ sở bàn bạc công khai và dựa vào kết quả
đàm phán, thương lượng.
     Cùng với hệ thống các quy định về tiền lương, doanh nghiệp phải chú
ý tới mối quan hệ giữa chi phí tiền lương với khả năng cạnh tranh, hiệu quả
mà trong đó lợi nhuận và năng xuất lao động là sự biểu hiện tổng hợp nhất.
     Do tiền lương là yếu tố chi phí sản xuất nên trong điều kiện chi phí vật
chất (C) và giá sản phẩm, dịch vụ không đổi thì sự thay đổi chi phí tiền
lương (V) sẽ tác động tới khả năng cạnh tranh và lợi nhuận của doanh
nghiệp. Muốn tăng khả năng cạnh tranh với lợi nhuận thì bắt buộc doanh
nghiệp phải giảm chi phí lao động bằng hai cách hoặc giảm tiền lương hoặc
tăng năng suất lao động. Trong hai biện pháp này thì giảm tiền lương tuyệt
                                                                             36
http://luanvan.forumvi.com     email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

đối thường không nhận được sự đồng tình của người lao động nên chỉ được
áp dụng trong một số trường hợp nhất định, còn giảm lương tương đối
thông qua tăng năng suất lao động thì ít gặp sự phản đối của người lao động
và là biện pháp được áp dụng phổ biến. Vì vậy cần phải quan tâm tới năng
suất lao động và các biện pháp tăng năng suất lao động. Thực chất năng suất
lao động cũng là yếu tố quan trọng tác động đến lợi nhuận và tính cạnh
tranh vủa doanh nghiệp.
     Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam, Luật doanh nghiệp và Bộ luật lao động đã quy định
quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp về tiền lương như sau:
     - Xây dựng, áp dụng các định mức lao động, đơn giá tiền lương trên
đơn vị sản phẩm, riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước thì phải trong khuôn
khổ các định mức, đơn giá của Nhà nước.
     - Được tuyển chọn, thuê mướn, bố trí, sử dụng, đào tạo lao động, lựa
chọn các hình thức xác địmh chi phí tiền lương cho phù hợp, lựa chọn các
hình thức trả lương theo thời gian, theo sản phẩm... Được quyền quyết định
mức lương và trả cho người lao động trên cơ sở đơn giá tiền lương theo sản
phảam hoặc chi phí dịch vụ và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
     - Được quyền chủ động sử dụng phần lợi nhuận còn lại để mở rộng
phát triển sản xuất kinh doanh, chia cho cổ và thưởng cho người lao động
theo cống hiến của mỗi người vào kết quả sản xuất kinh doanh trong năm.
     - Doanh nghiệp phải thực hiện các nghĩa vụ đối với người lao động
theo quy định của Bộ Luật lao động, đảm bảo quyền lợi chính đáng của
người lao động và tạo điều kiện cho người lao động tham gia quản lý doanh
nghiệp.
     Như vậy về cơ sở khoa học đã khẳng định vai trò quan trọng của
doanh nghiệp trong việc xác định tiền lương và trả lương cho người lao
động. Vai trò này đã được thừa nhận và luật pháp hoá. Tuy nhiên để thực
hiện tốt vai trò của mình thì doanh nghiệp phải tăng cường tính chủ động
                                                                          37
http://luanvan.forumvi.com     email: luanvan84@gmail.com
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

    trong việc xây dựng các quy định tiền lương cụ thể, phù hợp với điều kiện
    của doanh nghiệp và trong khuôn khổ pháp luật. Đồng thời cơ quan quản lý
    Nhà nước phải hướng dẫn cụ thể các quy định có tính nguyên tắc nêu trên
    phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp để tạo ra hành lang pháp lý hoàn
    chỉnh, làm cơ sở để các doanh nghiệp thực hiện.
          Trong việc quy định cụ thể chính sách tiền lương phải tôn trọng lý
    thuyết của người câu cá là "con cá quyết định mồi của nó là gì chứ không
    phải là người đi câu cá ", nghĩa là chỉ nêu quy định tạo ra hành lang pháp lý
    chứ không phải quy định cụ thể việc trả lương. Vì cuối cùng thì tiền lương
    vẫn do thị trường, do doanh nghiệp quyết định, chứ không phải do người
    làm chính sách chung quyết định.
    5. Thực trạng các doanh nghiệp Nhà nước
          Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII
    trình đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Thực hiện nhất quản chính sách
    phát triển nền kinh tế nhiều thành phần...; trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò
    chủ đạo, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế hợp tác xã dần trở thành nền tảng...
    Kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, nắm những vị trí
    then chốt, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất
    quan trong và là một công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế”.
          Đó là quan điểm, phương hướng, nhưng thực trạng doanh nghiệp Nhà
    nước hiện tại ra sao? Trước hết về số lượng, tính đến nay tổng số doanh nghiệp
    Nhà nước là 5280. Trong tổng số: doanh nghiệp Nhà nước do Trung ương quản
    lý là 1.908, doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý là 3.372.
    Tình hình tài chính, lao động của các doanh nghiệp Nhà nước
                                                                           Biểu số 1
              Năm        1996          1997          1998          1999          2000
Chỉ tiêu
Tổng số DNNN             6052          5740          5789          5571          5280
Tổng số laođộng(ng)    1.124.118     1.543.083   1.642.370   1.740.039   1.702.318
Doanh thu (tr.đ)       20.684.757   25.144.082 27.818.045 33.780.427 29.741.144
Lợi nhuận (tr.đ)      179.362.514   236.998.165 269.928.056 264.967.799 259.810.429
Nộp ng.sách (tr.đ)     10.455.111   11.250.053 12.169.787 14.562.270 13.111.126

                                                                                    38
    http://luanvan.forumvi.com      email: luanvan84@gmail.com
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc
QT190.doc

More Related Content

More from Luanvan84

bctntlvn (96).pdf
bctntlvn (96).pdfbctntlvn (96).pdf
bctntlvn (96).pdfLuanvan84
 
bctntlvn (77).pdf
bctntlvn (77).pdfbctntlvn (77).pdf
bctntlvn (77).pdfLuanvan84
 
bctntlvn (76).pdf
bctntlvn (76).pdfbctntlvn (76).pdf
bctntlvn (76).pdfLuanvan84
 
bctntlvn (75).pdf
bctntlvn (75).pdfbctntlvn (75).pdf
bctntlvn (75).pdfLuanvan84
 
bctntlvn (74).pdf
bctntlvn (74).pdfbctntlvn (74).pdf
bctntlvn (74).pdfLuanvan84
 
bctntlvn (73).pdf
bctntlvn (73).pdfbctntlvn (73).pdf
bctntlvn (73).pdfLuanvan84
 
bctntlvn (72).pdf
bctntlvn (72).pdfbctntlvn (72).pdf
bctntlvn (72).pdfLuanvan84
 
bctntlvn (71).pdf
bctntlvn (71).pdfbctntlvn (71).pdf
bctntlvn (71).pdfLuanvan84
 
bctntlvn (70).pdf
bctntlvn (70).pdfbctntlvn (70).pdf
bctntlvn (70).pdfLuanvan84
 
bctntlvn (7).pdf
bctntlvn (7).pdfbctntlvn (7).pdf
bctntlvn (7).pdfLuanvan84
 
bctntlvn (69).pdf
bctntlvn (69).pdfbctntlvn (69).pdf
bctntlvn (69).pdfLuanvan84
 
bctntlvn (68).pdf
bctntlvn (68).pdfbctntlvn (68).pdf
bctntlvn (68).pdfLuanvan84
 
bctntlvn (67).pdf
bctntlvn (67).pdfbctntlvn (67).pdf
bctntlvn (67).pdfLuanvan84
 
bctntlvn (66).pdf
bctntlvn (66).pdfbctntlvn (66).pdf
bctntlvn (66).pdfLuanvan84
 
bctntlvn (65).pdf
bctntlvn (65).pdfbctntlvn (65).pdf
bctntlvn (65).pdfLuanvan84
 
bctntlvn (64).pdf
bctntlvn (64).pdfbctntlvn (64).pdf
bctntlvn (64).pdfLuanvan84
 
bctntlvn (63).pdf
bctntlvn (63).pdfbctntlvn (63).pdf
bctntlvn (63).pdfLuanvan84
 
bctntlvn (62).pdf
bctntlvn (62).pdfbctntlvn (62).pdf
bctntlvn (62).pdfLuanvan84
 
bctntlvn (61).pdf
bctntlvn (61).pdfbctntlvn (61).pdf
bctntlvn (61).pdfLuanvan84
 
bctntlvn (60).pdf
bctntlvn (60).pdfbctntlvn (60).pdf
bctntlvn (60).pdfLuanvan84
 

More from Luanvan84 (20)

bctntlvn (96).pdf
bctntlvn (96).pdfbctntlvn (96).pdf
bctntlvn (96).pdf
 
bctntlvn (77).pdf
bctntlvn (77).pdfbctntlvn (77).pdf
bctntlvn (77).pdf
 
bctntlvn (76).pdf
bctntlvn (76).pdfbctntlvn (76).pdf
bctntlvn (76).pdf
 
bctntlvn (75).pdf
bctntlvn (75).pdfbctntlvn (75).pdf
bctntlvn (75).pdf
 
bctntlvn (74).pdf
bctntlvn (74).pdfbctntlvn (74).pdf
bctntlvn (74).pdf
 
bctntlvn (73).pdf
bctntlvn (73).pdfbctntlvn (73).pdf
bctntlvn (73).pdf
 
bctntlvn (72).pdf
bctntlvn (72).pdfbctntlvn (72).pdf
bctntlvn (72).pdf
 
bctntlvn (71).pdf
bctntlvn (71).pdfbctntlvn (71).pdf
bctntlvn (71).pdf
 
bctntlvn (70).pdf
bctntlvn (70).pdfbctntlvn (70).pdf
bctntlvn (70).pdf
 
bctntlvn (7).pdf
bctntlvn (7).pdfbctntlvn (7).pdf
bctntlvn (7).pdf
 
bctntlvn (69).pdf
bctntlvn (69).pdfbctntlvn (69).pdf
bctntlvn (69).pdf
 
bctntlvn (68).pdf
bctntlvn (68).pdfbctntlvn (68).pdf
bctntlvn (68).pdf
 
bctntlvn (67).pdf
bctntlvn (67).pdfbctntlvn (67).pdf
bctntlvn (67).pdf
 
bctntlvn (66).pdf
bctntlvn (66).pdfbctntlvn (66).pdf
bctntlvn (66).pdf
 
bctntlvn (65).pdf
bctntlvn (65).pdfbctntlvn (65).pdf
bctntlvn (65).pdf
 
bctntlvn (64).pdf
bctntlvn (64).pdfbctntlvn (64).pdf
bctntlvn (64).pdf
 
bctntlvn (63).pdf
bctntlvn (63).pdfbctntlvn (63).pdf
bctntlvn (63).pdf
 
bctntlvn (62).pdf
bctntlvn (62).pdfbctntlvn (62).pdf
bctntlvn (62).pdf
 
bctntlvn (61).pdf
bctntlvn (61).pdfbctntlvn (61).pdf
bctntlvn (61).pdf
 
bctntlvn (60).pdf
bctntlvn (60).pdfbctntlvn (60).pdf
bctntlvn (60).pdf
 

QT190.doc

  • 1. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com LỜI NÓI ĐẦU Hiện nay, nước ta đang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước thì các doanh nghiệp Nhà nước nổi lên là một bộ phận quan trọng, là chỗ dựa để kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thông qua nó, Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. Trong khi đó một số doanh nghiệp Nhà nước còn có nhiều tiêu cực, làm ăn không có hiệu quả và thua lỗ. Vì vậy một yêu cầu đặt ra là phải làm sao để các doanh nghiệp Nhà nước - các doanh nghiệp nắm giữ các ngành, các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế có thể phát triển một cách vững mạnh và thực sự trở thành một lực lượng vật chất hùng mạnh. Để có thể đứng vững và phát huy vai trò to lớn của mình trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp Nhà nước phải làm ăn thật sự hiệu quả mà trước hết là phải quản lý, sử dụng tốt các nguồn đầu vào. Do đó việc quản lý tốt tiền lương, thu nhập - một trong những chi phí đầu vào là hết sức cần thiết, làm sao để sử dụng hiệu quả nhất chi phí tiền lương, phát huy được vai trò đòn bẩy kinh tế của tiền lương. Trong thời gian vừa qua vấn đề quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước mặc dù đã được nhiều nhà quản lý, nghiên cứu đề cập đến nhưng do tiền lương một mặt là vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm, mặt khác tiền lương trong cơ chế thị trường vẫn là một vấn đề mới nên việc đưa ra các chính sách, giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Nó có liên quan chặt chẽ đến động lực phát triển và tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, khai thác các khả năng tiềm tàng từ mỗi người lao động. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề và được sự giúp đỡ nhiệt tình của tập thể cán bộ Vụ Tiền lương - Tiền công - Bộ Lao động - Thương binh và 1 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 2. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com Xã hội, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo GS.TS Phạm Đức Thành, tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài: “Hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước”. Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm ba phần chính như sau: Phần I: Ý nghĩa của việc hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước. Phần II: Thực trạng cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước. Phần III: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước. Tôi đã cố gắng trình bày vấn đề một cách khái quát và đầy đủ nhất. Tuy nhiên, đây là một vấn đề phức tạp và do kiến thức, kinh nghiệm còn nhiều hạn chế nên bài viết khó tránh khỏi khiếm khuyết. Rất mong nhận được những ý kiến góp ý để tôi có thể nắm bắt vấn đề toàn diện hơn nữa và vững vàng hơn, hoàn thiện hơn trong những lần viết sau. Tôi xin chân thành cảm ơn! 2 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 3. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com PHẦN I Ý NGHĨA CỦA VIỆC HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ TIỀN LƯƠNG, THU NHẬP TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC. I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG, THU NHẬP VÀ QUẢN LÝ TIỀN LƯƠNG, THU NHẬP TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 1. Lý luận chung về tiền lương, thu nhập 1.1. Khái niệm, bản chất của tiền lương, thu nhập Từ khi sức lao động trở thành hàng hoá, xuất hiện thị trường sức lao động (hay còn gọi là thị trường lao động) thì khái niệm tiền lương xuất hiện. Tiền lương là một phạm trù kinh tế - xã hội, thể hiện kết quả của sự trao đổi trên thị trường lao động. Để có thể tiền hành sản xuất, cần có sự kết hợp của hai yếu tố cơ bản là lao động và vốn. Vốn thuộc quyền sở hữu của một bộ phận dân cư trong xã hội, còn một bộ phận dân cư khác, do không có vốn, chỉ có sức lao động họ phải đi làm thuê cho những người có vốn, đổi lại họ được nhận một khoản tiền, gọi là tiền lương( hay tiền công). Như vậy khái niệm "tiền lương" xuất hiện khi có sự sử dụng sức lao động của một bộ phận dân cư trong xã hội một cách có tổ chức và đều đặn bởi một bộ phận dân cư khác. Tiền lương, tiền công được hiểu là giá cả sức lao động, nó là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động. Xét trong mối quan hệ lao động thì tiền lương là giá cả sức lao động, được hình thành thông qua sự thoả thuận giữa người sử dụng sức lao động và người lao động phù hợp với quan hệ cung cầu lao động trên thị trường. Vậy giá cả sức lao động do cái gì quyết định, do lượng hao phí lao động xã hội cần thiết hay do cung cầu trên thị trường quyết định? Chúng ta phải hiểu là cơ sở của giá cả sức lao động là do lượng hao phí lao động xã hội cần thiết quyết định (còn gọi là giá trị sức lao động), còn sự biến động trên thị trường của giá cả sức lao động xoay quanh giá trị sức lao động là do quan hệ cung cầu quyết định. 3 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 4. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com Ta có thể đi đến một khái niệm đầy đủ về tiền lương, tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá cả yếu tố sức lao động mà người sử dụng sức lao động phải trả cho người cung ứng sức lao động, tuân theo nguyên tắc cung cầu, giá cả của thị trường và pháp luật hiện hành của Nhà nước. Để có một khái niệm mang tính pháp lý về tiền lương, Điều 55 Bộ luật Lao động có ghi: "Tiền lương của người lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Mức lương của người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định". Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như ở nước ta hiện nay, phạm trù tiền lương được thể hiện cụ thể trong từng thành phần và khu vực kinh tế. Trong thành phần kinh tế Nhà nước và khu vực hành chính sự nghiệp, tiền lương là số tiền mà các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức của Nhà nước trả cho người lao động theo cơ chế và chính sách của Nhà nước và được thể hiện trong hệ thống thang, bảng lương do Nhà nước quy định. Trong các thành phần và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, tiền lương chịu sự tác động và chi phối rất lớn của thị trường và thị trường lao động. Tiền lương trong khu vực này dù vẫn nằm trong khuôn khổ pháp luật và theo những chính sách của Chính phủ, nhưng được quyết định theo sự thoả thuận trực tiếp giữa chủ và thợ, những "mặc cả" cụ thể giữa một bên là làm thuê và một bên đi thuê thông qua hợp đồng lao động. Cùng với phạm trù tiền lương, chúng ta còn có các phạm trù khác như: tiền công, thu nhập, chúng cùng mang bản chất với tiền lương tức là đều biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động. Nhưng giữa tiền lương và tiền công có sự phân biệt nhất định. Trước đây hai khái niệm này khác nhau về cả nội dung và đối tượng chi trả. Khái niệm tiền lương được sử dụng trong khu vực quốc doanh, nó là phần trả trực tiếp cho 4 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 5. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com người lao động, ngoài tiền lương được trả bằng tiền người lao động còn nhận được phần phân phối gián tiếp bằng hiện vật thông qua tem, phiếu và một số chính sách phúc lợi như chính sách nhà ở, bảo hiểm xã hôi, khám chữa bệnh... Tiền công được dùng cho các đối tượng còn lại ngoài Kinh tế quốc doanh, nó bao gồm cả phần trả trực tiếp và gián tiếp cho người lao động. Nói khác đi tiền công chính là tiền lương đã được tiền tệ hóa. Hiện nay tiền lương và tiền công dường như không còn sự tách biệt, đều là giá cả sức lao động nhưng vẫn còn thói quen quan niệm tiền lương gắn với khu vực kinh tế quốc doanh và tiền công gắn với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Nhưng dù tiền lương hay tiền công cũng đều phải đảm bảo các yêu cầu sau : + Tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất sức lao động mở rộng + Thúc đẩy tăng năng suất lao động + Phù hợp với cung cầu lao động Trong khái niệm tiền lương cần phân biệt giữa tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế. Tiền lương danh nghĩa là số tiền người lao động trực tiếp nhận được từ phía người sử dụng lao động trả cho công việc họ làm, còn tiền lương thực tế được hiểu là lượng hàng hóa, dịch vụ cần thiết mà người lao động hưởng lương mua được bằng lượng tiền lương danh nghĩa của họ. Như vậy tiền lương thực tế không chỉ phụ thuộc vào tiền lương danh nghĩa mà còn phụ thuộc vào giá cả hàng hoá, dịch vụ cần thiết. Mối quan hệ giữa tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế được thể hiện thông qua công thức : Itldn Itltt = Igc Trong đó : Itltt : là chỉ số tiền lương thực tế Itldn : là chỉ số tiền lương danh nghĩa 5 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 6. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com Igc : là chỉ số giá cả Thu nhập có cùng bản chất với tiền lương nhưng được hiểu với nghĩa rộng hơn, thu nhập của một người lao động là tất cả những khoản thu mà người lao động đó nhận được từ việc cung ứng sức lao động của mình, bao gồm cả tiền lương (hay tiền công), tiền thưởng, tiền ăn ca... 1.2. Các chức năng cơ bản của tiền lương: 1.2.1. Thước đo giá trị của lao động Do lao động là hoạt động chính của con người và là đầu vào của mọi qúa trình sản xuất trong xã hội, tiền lương là hình thái cơ bản của thù lao lao động thể hiện giá trị của khối lượng sản phẩm và dịch vụ mà người lao động nhận được trên cơ sở trao đổi sức lao động. Hiểu theo cách này, tiền lương bị chi phối bởi quy luật giá trị và phân phối theo lao động. 1.2.2. Duy trì và phát triển sức lao động Tiền lương là bộ phận thu nhập chính của người lao động nhằm thoả mãn phần lớn các nhu cầu về văn hoá và vật chất của người lao động. Mức độ thoả mãn các nhu cầu của người lao động phần lớn được căn cứ vào độ lớn của các mức tiền lương. Độ lớn của tiền lương phải tạo ra các điều kiện cần thiết để bảo đảm tái sản xuất sức lao động giản đơn và mở rộng sức lao động cho người lao động và gia đình họ. Hiểu theo cách này tiền lương bị chi phối bởi quy luật tái sản xuất sức lao động. Có nghĩa là trong một chừng mực nhất định, cần thiết phải bảo đảm mức lương tối thiểu cho người lao động không phụ thuộc vào hiệu quả lao động của họ. Bên cạnh đó, các mức tiền lương tăng không ngừng sẽ có tác động nâng cao khả năng tái sản xuất sức lao động, tạo điều kiện nâng cao chất lượng lao động và các giá trị khác của người lao động. 1.2.3. Kích thích lao động. Các mức tiền lương và cơ cấu tiền lương là các đòn bẩy kinh tế rất quan trọng để định hướng quan tâm và động cơ trong lao động của người lao động. Khi độ lớn của tiền lương phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất kinh doanh, khi khối lượng các tư liệu sinh hoạt của người lao động phụ thuộc trực tiếp vào độ lớn 6 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 7. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com của các mức tiền lương thì người lao động sẽ quan tâm trực tiếp đến kết quả hoạt động của họ. Nâng cao hiệu quả lao động là nguồn gốc để tăng thu nhập, tăng khả năng thoả mãn nhu cầu của người lao động. Hiểu theo cách này, tiền lương bị chi phối bởi quy luật không ngừng thoả mãn các nhu cầu sinh hoạt và không ngừng nâng cao năng suất lao động. Nguyện vọng không ngừng thoả mãn các nhu cầu sinh hoạt được thể hiện trong việc không ngừng nâng cao hiệu quả lao động, không ngừng nâng cao năng suất lao động, tăng hiệu quả lao động. 1.2.4. Kích thích kinh tế phát triển và thúc đẩy sự phân công lao động trên toàn bộ nền kinh tế Trên lĩnh vực vĩ mô, tổng mức tiền lương quyết định tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ cần thiết phải sản xuất. Do vậy, việc tăng các mức tiền lương có tác dụng kích thích tăng sản xuất, qua đó tăng nhu cầu về lao động. Bên cạnh đó, sự chênh lệch tiền lương giữa các ngành, các nghề thúc đẩy sự phân công và bố trí lao động cũng như các biện pháp nâng cao năng suất lao động. 1.2.5. Chức năng xã hội của tiền lương Cùng với việc không ngừng nâng cao năng suất lao động, tiền lương là yếu tố kích thích không ngừng hoàn thiện các mối quan hệ lao động. Việc gắn tiền lương với hiệu quả của người lao đọng và đơn vị kinh tế sẽ thúc đẩy mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau để đạt được các mức tiền lương cao nhất. Bên cạnh đó, tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện của con người và thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng dân chủ hoá và văn minh hoá. Tóm lại, tiền lương là một phạm trù kinh tế tổng hợp và là đòn bẩy kinh tế rất quan trọng đến sản xuất, đời sống và các mặt khác của nền kinh tế xã hội, tiền lương được trả đúng đắn có tác dụng: (1) đảm bảo tái sản xuất sức lao động và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho người lao động; (2) là một yếu tố quan trọng để nâng cao năng suất lao động; (3) tạo điều kiện để phân bố hợp lý sức lao động giữa các ngành nghề, các vùng, các 7 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 8. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com lĩnh vực trong cả nước: (4) thúc đẩy bản thân người lao động và xã hội phát triển. 1.3. Tiền lương trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Các đặc điểm cơ bản của tiền lương: Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, việc đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động và gia đình họ là một mục tiêu quan trọng. Do vậy tiền lương không bị hạ thấp một cách quá đáng hoặc quá linh hoạt, trái lại, nó dừng ở một mức vừa phải và có tính ổn định. Tuy nhiên, thất nghiệp vì thế cũng có nguy cơ gia tăng nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời của Chính phủ thông qua các giải pháp kích cầu. - Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tiền lương có mối quan hệ tỷ lệ thuận với mức tăng lợi nhuận và tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là tiền đề để tăng tiền lương, thu nhập, nâng cao mức sống của người làm công ăn lương và do vậy lợi nhuận phải được thực hiện trên cơ sở tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, không dựa trên việc khai thác, bóc lột sức lao động. - Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, việc tăng tiền lương cần thiết phải đạt được trên cơ sở tăng cường mối liên kết giữa lao động và quản lý, tiến tới sự kết hợp hài hoà của các lợi ích, trên cơ sở các bên cùng có lợi, cùng chia sẻ lợi ích. - Phân phối tiền lương và thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phản ánh sự chênh lệch về số lượng và chất lượng lao động thực hiện. Tiền lương không đơn thuần thể hiện chi phí đầu vào, mà còn thể hiện cả kết quả của "đầu ra". Bài toán phân chia tiền lương trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là bài toán phân chia lợi ích được thực hiện thông qua việc phát huy vai trò của thoả ước lao động cũng như sự can thiệp của Chính phủ. - Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước tham gia một cách tích cực và chủ động vào quá trình phân phối (bao gồm phân phối lần đầu và phân phối lại). Tuy nhiên, Nhà nước thực hiện sự phân chia tiền lương 8 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 9. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com thông qua hệ thống pháp luật và chính sách kinh tế, xã hội vừa bảo đảm hạn chế sự bóc lột và tiêu cực trong kinh doanh của người chủ đồng thời khuyến khích lợi ích chính đáng, tính tích cực, sáng tạo của họ. - Việc làm, an toàn việc làm và an sinh xã hội là mối quan tâm của người lao động, do đó mức tiền lương cần phải đủ lớn để duy trì cuộc sống của họ trong ngày hôm nay và cho cả khi họ không có sức lao động. Nói cách khác, tiền lương cần bao gồm cả tiền lương cơ bản và một phần cho an sinh xã hội phòng khi thất nghiệp. Về thực chất tiền lương này cao hơn so với tiền lương của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Các nguyên tắc cơ bản của tiền lương: - Tiền lương bị chi phối không những bởi quy luật giá trị, quy luật cung cầu lao động mà còn bị chi phối bởi các qui luật kinh tế khác, trong đó có qui luật về mức sống tối thiểu. - Cách biệt về tiền lương giữa những người thấp nhất và cao nhất không như tiền lương trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. - Tiền lương có tính bảo đảm cao, không những bảo đảm mức sống cho người lao động trong quá trình làm việc mà còn bảo đảm cho họ có mức sống khi suy giảm sức lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn. - Tiền lương dựa trên điều kiện lao động tốt, các tiêu chuẩn lao động và chế độ làm việc ngày càng được hoàn thiện. - Tiền lương linh hoạt tương đối, không những thể hiện giá trị lao động mà cả hiệu suất lao động do sự tham gia của người lao động vào quá trình phân phối lần đầu và lần 2 trong nội bộ doanh nghiệp. - Mức tiền lương tăng dựa trên sự khai thác các yếu tố tiềm năng trong sản xuất. Tiền lương là kết quả của mối liên kết quản lý lao động, không dựa vào sự chiếm đoạt của người sử dụng lao động đối với người lao động. Tuy nhiên Việt Nam hiện tại trong thời kỳ quá độ, từ nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy, không thể tránh khỏi những yếu tố của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa như: sự cạnh tranh (kể cả cạnh 9 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 10. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com tranh không lành mạnh), phá sản, tình trạng thất nghiệp, sự phân hoá mạnh của các mức lương, sự phân hoá về thu nhập, mức sống của xã hội và các tầng lớp dân cư. Vì vậy cần thiết phải chấp nhận một sự phân biệt về tiền lương theo vùng, ngành, theo kết quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. 1.4. Yêu cầu và các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức tiền lương Tổ chức tiền lương là quá trình thực hiện chi trả cho người lao động theo các yêu cầu và nguyên tắc của pháp luật hiện hành. Tổ chức tiền lương bao gồm toàn bộ quá trình từ việc xây dựng quỹ tiền lương đến việc áp dụng các chế độ hình thức trả lương để phân phối đến tay người lao động. Tổ chức tiền lương là một mảng quản lý rất phức tạp, đòi hỏi kiến thức, kinh nghiệm và bảo đảm các nguyên tắc. • Nguyên tắc của tổ chức tiền lương - Trả lương như nhau cho những lao động như nhau Ở đây công bằng được hiểu theo công bằng dọc. Nguyên tắc được đưa ra dựa trên cơ sở quy luật lao động theo phân phối theo lao động. Trong điều kiện sản xuất như nhau (số lượng, chất lượng) người lao động phải được hưởng lương ngang nhau không phân biệt giới tính, lứa tuổi, dân tộc. Nguyên tắc này đã được đưa ra từ rất sớm. Ngay sau khi cách mạng tháng tám thành công, sắc lệnh của Chủ tịch nước Việt nam dân chủ cộng hoà ghi rõ: "Công dân là đàn bà hay trẻ em mà làm cùng một công việc như công dân đàn ông, được tính tiền lương của công dân đàn ông." Và cho đến nay đây vẫn là một nguyên tắc được chú trọng hàng đầu trong công tác tổ chức tiền lương. Nó có ý nghĩa quan trọng trong quản trị nhân lực và tạo động lực lao động cho người lao động. - Tốc độ tăng tiền lương chậm hơn tốc độ tăng năng suất lao động Tiền lương bình quân tăng lên do nhiều yếu tố như năng suất lao động, cải tiến công nghệ, tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu trong sản xuất. Do đó để có thể tái sản xuất mở rộng, tăng tiền lương phải đảm bảo tăng chậm hơn tăng năng suất lao động, tạo cơ sở giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh. 10 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 11. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com Đối với nền kinh tế, thực chất mối quan hệ này là mối quan hệ giữa tiêu dùng và tích luỹ hay giữa tốc độ phát triển của khu vực sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực sản phẩm tiêu dùng. Mức tăng của tổng sản phẩm xã hội (tư liệu tiêu dùng + tư liệu sản xuất) lớn hơn mức tăng tiêu dùng làm cho sản phẩm xã hôi tính bình quân theo đầu người tăng lên, năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương. Nguyên tắc này mang tính kinh tế nên cần được duy trì tuyệt đối, nhằm đảm bảo sư tồn tại và phát triển của các donah nghiệp và của cả xã hội. - Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao động làm trong các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau trong nền kinh tế quốc dân Cơ sở của nguyên tắc này là đảm bảo kết hợp hài hoà giữa quá trình phân công lao động và phát triển xã hội. Tính phức tạp về kỹ thuật giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân đòi hỏi trình độ lành nghề của người lao động là khác nhau dẫn đến tiền lương bình quân của các ngành là khác nhau. Nguyên tắc này khẳng định một sự phân biệt cần thiết các điều kiện lao động nhằm phục vụ chính sách kinh tế xã hội. Mức lương cao hơn với một yêu cầu về kỹ năng, trình độ, kinh nghiệm sẽ thúc đẩy người lao động tự học hỏi, tích luỹ kinh nghiệm và nâng cao năng suất lao động.Nguyên tắc này thể hiện tính xã hội của tiền lương, do đó không thể coi nhẹ. Nó bao hàm ý nghĩa kinh tế của mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân. Xét trong tòan bộ nền kinh tế, mỗi ngành có một vai trò khác nhau trong các giai đoạn, thời kỳ phát triển khác nhau. Những ngành có vai trò quan trọng, mang tính mũi nhọn được chú trọng cần được tập trung tài nguyên, nhân lực để thúc đẩy phát triển kéo theo sự phát triển của các ngành khác và các ngành mũi nhọn đó được áp dụng hưởng mức lương cao hơn so với các ngành khác. Sự khác nhau về môi trường, khí hậu, dân cư, giá cả sinh hoạt sẽ tạo ra sự chênh lệch nội dung. Sự khác nhau đó được bù lại bằng chế độ chính sách mà tiền lương là một phần trong đó. Nguyên tắc này đã được cụ thể hoá trong Bộ Luật Lao động nước ta. 11 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 12. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com Mỗi nguyên tắc trên đây phản ánh một khía cạnh khác nhau của tiền lương, chúng kết hợp hài hoà và bổ sung cho nhau một cách thống nhất và tạo ra vai trò quan trọng của tiền lương. • Yêu cầu của tổ chức tiền lương - Bảo đảm tái sản xuất sức lao động và không ngừng nâng cao đời sống vật chất cho người lao động Sức lao động là năng lực lao đông, là toàn bộ thể lực và trí lực của con người. Sức lao động thể hiện ở trạng thái thể lực và tinh thần trạng thái tâm, sinh lý thể hiện ở trình độ nhận thức, kỹ năng lao động. Sức lao động là một trong 3 yếu tố của quá trình sản xuất, nó là yếu tố quan trọng nhất vì sức lao động có khả năng phát động và đưa các tư liệu lao động, đối tượng lao động và quá trình sản xuất. - Làm cho năng suất lao động không ngừng nâng cao Tiền công là đòn bẩy quan trọng để nâng cao năng suất lao động, tạo cơ sở quan trọng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Do đó, tổ chức tiền lương phải đạt được yêu cầu là làm tăng năng suất lao động. Mặt khác đây cũng là yêu cầu đặt ra với việc phát triển, nâng cao trình độ và khả năng của người lao động. - Phải đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu Tổ chức tiền lương luôn là vấn đề phức tạp, tuy nhiên cần phải rõ ràng, dễ hiểu để người lao động nhận thấy được sự công bằng, khách quan trong tiền lương. - Phải hợp pháp Tổ chức tiền lương trong bất kỳ một doanh nghiệp nào trên lãnh thổ Việt nam cũng đều phải tuyệt đối chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật Việt Nam. Bộ Luật Lao động nước ta cũng đã có một chương quy định về các vấn đề xung quanh công tác xây dựng và quản lý tiền lương trong các doanh nghiệp Nhà nước. 1.5. Các yếu tố chi phối tiền lương 12 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 13. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com Khi tổ chức tiền lương cần phải nghiên cứu kỹ các yếu tố xác định và ảnh hưởng đến tiền lương nếu không tiền lương sẽ mang tính chủ quan và thiên lệch. Các yếu tố chi phối tiền lương , đó là: - Giá trị công việc - Trình độ phát triển kinh tế chung của đất nước và của từng vùng - Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và cá nhân trong từng thời kỳ - Mô hình phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp - Thâm niên làm việc trong doanh nghiệp - Các khoản chi phí khác về tiền lương (nếu có). Sơ đồ các yếu tố ảnh hưởng đến tiền lương: Công việc Kỹ năng Nỗ lực Trách nhiệm Điều kiện làm việc Xã hội Công ty -Cung cầu lao động -Định mức -Điều kiện KT LĐKT quốc gia Tiền lương, -Khả năng chi -Giá cả sinh thu nhập trả hoạt -Chính sách -Luật pháp chiến lược -Quan niệm -Đặc điểm hoạt thành kiến động Người lao động Kinh nghiệm Khả năng phát triển Thâm niên làm việc Thái độ tinh thần 2. Quản lý Nhà nước về tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước 13 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 14. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com 2.1.Quản lý Nhà nước về tiền lương Chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế xã hội của đất nước. Chính sách này liên quan trực tiếp đến lợi ích của đông đảo người lao động trong xã hội và được Nhà nước quản lý. Nhà nước quản lý thống nhất về tiền lương. Đối với người lao động là công nhân viên chức, Nhà nước trực tiếp quản lý tiền lương (theo các chỉ tiêu cụ thể về đối tượng hưởng lương, bậc lương và tiền lương tối thiểu). Nhà nước cũng thực hiện một cơ chế kiểm soát trong thực hiện chính sách và chế độ tiền lương, trên cơ sở luật pháp về tiền lương, các hợp đồng lao động và thuế thu nhập. Đối với người lao động không phải là công nhân viên chức Nhà nước, Nhà nước cũng thực hiện quản lý và kiểm soát tiền lương trên cơ sở luật pháp về lao động và tiền lương. * Việc quản lý Nhà nước về tiền lương được phân cấp thực hiện như sau : - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền lương ở cấp cao nhất. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành các văn bản pháp luật để hướng dẫn các doanh nghiệp phương pháp xây dựng đơn giá tiền lương, các thông số tiền lương và các hệ số điều chỉnh cần thiết và thông báo các thông tin cần thiết về tiền lương trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Qua đó chỉ đạo việc quản lý tiền lương của các Bộ, ngành và địa phương trong toàn quốc. - Các Bộ quản lý ngành, các đại phương (cấp tỉnh, thành phố) có trách nhiệm và quyền hạn quản lý công tác tiền lương của các doanh nghiệp, cơ quan trong phạm vi của mình trên cơ sở chỉ đạo của Bộ LĐ - TB&XH. Trong đó, phải báo cáo thường xuyên lên Bộ LĐ - TB&XH về công átc quản lý tiền lương tại Bộ, ngành mình. - Các doanh nghiệp có trách nhiệm thực hiện công tác lao động, tiền lương theo quy định, trong đó công tác tổ chức, xây dựng đơn giá và thực hiện các thủ tục hành chính cần thiết trong hoạt động tiền lương; 14 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 15. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com và báo cáo lên cơ quan quản lý cấp trên về tiền lương và thu nhập của doanh nghiệp mình. * Quản lý tiền lương, thu nhập của Nhà nước có những nội dung cụ thể sau : - Nghiên cứu ban hành hệ thống văn bản pháp lý về tiền lương, thu nhập như : + Từng thời kỳ ban hành mức tiền lương tối thiểu chung, mức tiền lương tối thiểu theo khu vực, mức tiền lương tối thiểu theo vùng; + Xác định hệ thống thước đo giá trị thông qua hệ thống thang lương, bảng lương, chế độ phụ cấp lương; + Quy định các chế độ trả lương và cơ chế quản lý tiền lương của từng khu vực; + Ban hành các tiêu chuẩn nghề, tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật công nhân, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và các phương pháp xây dựng định mức lao động tổng hợp cho các thành phần kinh tế. - Xây dựng chương trình mục tiêu, chủ trương, phương hướng, kế hoạch về tiền lương, tiền công chung và của từng thành phần kinh tế cho từng thời kỳ. - Tổ chức kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chính sách tiền lương, thu nhập, các tiêu chuẩn, định mức trong các thành phần kinh tế nói chung cũng như các doanh nghiệp nói riêng. 2.2.Quản lý Nhà nước về tiền lương đối với doanh nghiệp Nhà nước Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, Nhà nước phải đứng trên giác độ chung để quản lý lao động, tiền lương trong phạm vi toàn xã hội nhưng đồng thời Nhà nước cũng phải tăng cường biện pháp quản lý tiền lương đối với doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả, ổn định việc làm, thu nhập cho người lao động và tiếp tục phát triền giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. 15 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 16. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com Khi nói đến quản lý tiền lương, thu nhập trong doanh nghiệp Nhà nước là nói đến việc xác định quan hệ phân phối lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Nói đến quan hệ phân phối thì chính là nói đến sở hữu, đến vai trò quyết địnhcủa chủ sở hữu, đến mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng. Sở hữu là vấn đề cốt lõi trong quan hệ sản xuất, vì người nào nắm quyền sở hữu thì người đó sẽ có quyền chiếm dụng, quyền định đoạt và quyền hưởng thụ. Cũng vì lẽ đó, sở hữu là xuất phát điểm, làm cơ sở cho chủ sở hữu quyết định sẽ quản lý tài sản của mình ra sao, sẽ phân phối kết quả sản xuất kinh doanh mà tài sản đó mang lại như thế nào. Trong kinh tế quốc doanh, tính chất sở hữu ở đây chính là sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu do vậy đương nhiên Nhà nước đóng vai trò quyết định chính sách phân phối. Nhưng vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước thì Nhà nước quản lý như thế nào, quản lý đến đâu và cụ thể là ai? Trong thời kỳ quản lý tập trung chúng ta đã tuyệt đối hoá vai trò của Nhà nước. Trung ương quyết định tất cả, quản lý tất cả, trong lĩnh vực lao động, tiền lương quyết định từ tuyển dụng, đào tạo đến mức lương, tổng quỹ lương... của doanh nghiệp. Sự tuyệt đối hoá có tính quan liêu này đã phải trả giá không nhỏ là triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Nhà nước trở thành chỗ dựa vững chắc cho các doanh nghiệp tồn tại, tiền lương do Ngân sách chi trả mang nặng tính bình quân, không gắn với năng suất, hiệu quả của từng người, của từng doanh nghiệp. Nhận thấy những tồn tại trên, từ những năm đầu của thập kỷ 80 chúng ta đã bắt đầu đổi mới tổ chức, quản lý doanh nghiệp, bước đầu tách hai chức năng sở hữu và kinh doanh. Song xác định ai là người cụ thể đại diện chủ sở hữu trong doanh nghiệp qua thực tiễn đổi mới vừa qua cho thấy không phải là việc dễ dàng, nhiều công trình khoa học còn đang tiếp tục nghiên cứu để xác định rõ vấn đề này. Ở đây cần lưu ý một điều là không được hiểu lẫn lộn giữa Nhà nước sở hữu và Nhà nước kinh doanh trực tiếp. Nếu hiểu Nhà nước nói chung thì 16 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 17. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com không những không tạo điều kiện tách hai chức năng sở hữu và kinh doanh mà sẽ dẫn đến tình trạng Nhà nước bao biện, làm thay cho doanh nghiệp, còn doanh nghiệp thì thiếu chủ động như trước đây. Nếu coi nhẹ mặt sở hữu sẽ dẫn đến thất thoát, lãng phí và đồng vốn thuộc sở hữu Nhà nước đạt hiệu quả thấp. Từ thời kỳ kế hoạch hoá tập trung đến nay trong phạm vi một ngành, một vùng chúng ta vẫn xác định chủ sở hữu là các Bộ, ngành đối với doanh nghiệp ở Trung ương và địa phương đối với những doanh nghiệp ở địa phương. Nhưng khi thực hiện đang có sự xâm lấn nhau trong chức năng giữa cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp. Một mặt các cơ quan quản lý Nhà nước quản lý không chặt những vấn đề cần quản lý đối với các doanh nghiệp Nhà nước mà thường hay can thiệp sâu vào công việc quản lý tác nghiệp của doanh nghiệp. Mặt khác các doanh nghiệp ngoài chức năng kinh doanh lại còn được giao thực hiện một số công việc thuộc chức năng của các cơ quan quản lý Nhà nước. Việc can thiệp sâu vào công việc quản trị kinh doanh đã làm cho các doanh nghiệp tiếp tục ỷ lại Nhà nước, không phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm, không có khả năng đưa ra những giải pháp kịp thời cho những cơ hội làm ăn của mình, đồng thời đã làm cho các cơ quan chủ quản không tập trung được sức lực thời gian để thực hiện chức năng của chính mình là quản lý các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh theo đúng hướng phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, tuân thủ đúng pháp luật. Những vấn đề nêu trên cho thấy vấn đề chủ sở hữu trong doanh nghiệp vẫn chưa có giải pháp rõ ràng, giữa Nhà nước, Giám đốc và tập thể người lao động vẫn còn đan xen chưa có sự phân định minh bạch. Do vấn đề chủ sở hữu chưa được xác định rõ ràng nên chính sách phân phối nói chung và chính sách tiền lương nói riêng đối với doanh nghiệp trong giai đoạn này còn nhiều quan điểm chưa phù hợp. Tháng 4/1995 Luật doanh nghiệp đã được Quốc hội thông qua đã qui định rõ chủ sở hữu đối với tài sản công trong doanh nghiệp Nhà nước là Chính phủ, đồng thời cho phép Chính phủ phân cấp hoặc uỷ quyền cho các Bộ, ngành 17 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 18. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com và Ủy ban thực hiện một số quyền này. Còn đối với doanh nghiệp, dù kinh doanh hay hoạt động công ích, chỉ được quyền quản lý, sử dụng vốn và tài sản của Nhà nước giao để thực hiện nhiệm vụ của mình và tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh trong phạm vi doanh nghiệp quản lý. Luật doanh nghiệp nhà nước đã xác định rõ quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn và tài sản trong doanh nghiệp. Vì vậy vấn đề quản lý Nhà nước về tiền lương, thu nhập đối với các doanh nghiệp cũng phải xác định phù hợp với quyền sở hữu của Nhà nước. Trước hết, Nhà nước giữ vai trò quy định chính sách tiền lương để các doanh nghiệp áp dụng; Tiếp đến, Nhà nước quản lý thống nhất thông qua những biện pháp gián tiếp như ở giới hạn thấp nhất quy định tiền lương tối thiểu, ở giới hạn cao nhất thì điều tiết thông qua thuế thu nhập. Biện pháp trực tiếp như xác định yếu tố đầu vào chi phí tiền lương của sản phẩm, dịch vụ hoặc chính sách phân chia lợi nhuận. Trong phạm vi nguồn quỹ thu nhập gồm quỹ tiền lương, quỹ tiền thưởng doanh nghiệp được quyền trả lương cho người lao động theo năng suất và mức độ đóng góp của từng người. Tóm lại vai trò của Nhà nước về quản lý tiền lương đối với doanh nghiệp là hết sức cần thiết nhưng nội dung, phương pháp quản lý phải phù hợp với kinh tế thị trường. Chính phủ Bộ Lao động - Thương binh và xã Địa phương Các Bộ, ngành hội Mô hình tổ chức quản lý tiền lương hiện nay như sau : 18 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com Doanh nghiệp địa Tổng Công ty hạng Doanh nghiệp thuộc phương đặc biệt các Bộ, ngành
  • 19. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com 2.3. Cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước: Để đáp ứng đòi hỏi của cơ chế quản lý kinh tế mới, Chính phủ đã ban hành Nghị định 26/CP ngày 25/03/1993 và Nghị định 28/CP ngày 28/3/1997 về đổi mới quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước. Trong đó Nhà nước không trực tiếp quản lý quỹ tiền lương của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quyền tự xây dựng quỹ tiền lương thông qua đơn giá tiền lương được Nhà nước giao (trên cơ sở doanh nghiệp đã xác định đơn giá và có sự điều chỉnh của Nhà nước sao cho phù hợp với điều kiện của từng ngành, lĩnh vực, điều kiện thực tế và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có tính đến giá cả sức lao động trên thị trường). Việc quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước được quy định như sau : 2.3.1. Nguyên tắc chung: - Các sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp nhà nước đều phải có định mức lao động và đơn giá tiền lương. Đơn giá tiền lương phải được xây dựng trên cơ sở định mức lao động trung bình tiên tiến của doanh nghiệp và các thông số tiền 19 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 20. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com lương do Nhà nước quy định. Khi thay đổi về định mức lao động và các thông số tiền lương thì thay đổi đơn giá tiền lương. - Tiền lương và thu nhập phụ thuộc vào thực hiện khối lượng sản phẩm, dịch vụ, năng suất, chất lượng lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Tốc độ tăng tiền lương phải thấp hơn tốc độ tăng năng suất lao động. - Tiền lương và thu nhập của người lao động phải được thể hiện đầu đủ trong Sổ lương của doanh nghiệp theo mẫu thống nhất do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội ban hành. - Quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi của doanh nghiệp được thực hiện theo khoản 4 và 5, Điều 33, Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp Nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 59/CP ngày 03/10/1996 của Chính phủ và Nghị định số 27/1999/NĐ-CP ngày 20/4/1999 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước (ban hành kèm theo Nghị định số 59/CP ngày 03/10/1996 của Chính phủ). - Nhà nước quản lý tiền lương và thu nhập thông qua quản lý định mức lao động, đơn giá tiền lương và tiền lương thực hiện của doanh nghiệp. 2.3.2. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước: * Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội: - Trước tháng 4 hàng năm, thẩm định và giao đơn giá tiền lương cho các doanh nghiệp xếp hạng đặc biệt sau khi trao đổi ý kiến với Tổng cục quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp của Bộ Tài chính - Hằng năm tổng hợp tình hình giao đơn giá tiền lương của tất cả các doanh nghiệp nhà nước từ Trung ương đến địa phương - Thông báo mức lương bình quân chung của các doanh nghiệp được nhà nước giao đơn giá tiền lương vào cuối quý II, đầu quý III hằng năm làm cơ sở 20 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 21. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com xác định lương bình quân thực hiện tối đa của các doanh nghiệp theo quy định tại khoản 2, điều 5 Nghị định số 28/CP ngày 28/3/1997 của Chính phủ. - Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện, xây dựng đơn giá tiền lương và quản lý tiền lương, thu nhập của các doanh nghiệp thuộc Bộ quản lý ngành, lĩnh vực, các Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. * Đối với các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực: - Trước tháng 4 hằng năm, thẩm định và giao đơn giá tiền lương cho các doanh nghiệp thuộc quyền quản lý - Phối hợp với Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, thẩm định đơn giá tiền lương cho các Tổng công ty thành lập theo quyết định số 90/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ được xếp doanh nghiệp hạng đặc biệt - Kiểm tra việc xây dựng, thực hiện đơn giá tiền lương và quản lý lao động, tiền lương, thu nhập của các doanh nghiệp thuộc quyền * Uỷ ban nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo để Sở Lao động- Thương binh và Xã hội phối hợp với các Sở quản lý ngành, lĩnh vực: - Hướng dẫn các doanh nghiệp thuộc quyền quản lý của địa phương để xây dựng đơn giá tiền lương theo quy định tại Thông tư 13/LĐTB&XH-TT ngày 10/4/4997 - Trước tháng 4 hàng năm, thẩm định và giao đơn giá tiền lương cho các doanh nghiệp nhà nước và các Công ty cổ phần có trên 50% vốn do doanh nghiệp nhà nước góp thuộc quyền quản sau khi trao đổi quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp ở địa phương. - Thanh tra kiểm tra việc xây dựng, thực hiện đơn giá tiền lương và quản lý lao động, tiền lương, thu nhập của các doanh nghiệp trực thuộc địa phương. * Cán bộ quản lý ngành, lĩnh vực và các Sở Lao động -Thương binh và Xã hội Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm: 21 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 22. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com - Chậm nhất vào tháng 5 hàng năm, báo cáo về Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tình hình đơn giá tiền lương hàng năm kế hoạch cho các doanh nghiệp thuộc quyền quản lý và tình hình lao động, tiền lương, thu nhập thực hiện năm trước của các doanh nghiệp theo mẫu số 1 và mẫu số 2 kèm theo thông tư 13/LĐTBXH-TT ngày 10/4/1997. - Tổ chức và củng cố bộ phận chuyên trách làm công tác lao động - tiền lương, bố trí, bồi dưỡng cán bộ có đủ trình độ, nghiệp vụ chuyên môn thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, yêu cầu của công tác thẩm định, quản lý định mức lao động và đơn giá tiền lương theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn tại thông tư 13/LĐTBXH-TT ngày 10/4/1997. 2.3.3. Trách nhiệm của doanh nghiệp * Về tổ chức công tác lao động tiền lương: - Để thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, yêu cầu của công tác quản lý theo Bộ Luật lao động và Luật doanh nghiệp Nhà nước; thực hiện việc xây dựng định mức lao động, tổ chức và phân công lao động, xây dựng đơn giá tiền lương và phân phối tiền lương gắn với năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh doanh của đơn vị và cá nhân người lao động, các doanh nghiệp phải tổ chức, củng cố bộ phận chuyên trách làm công tác lao động - tiền lương của doanh nghiệp, bố trí và bồi dưỡng cán bộ có đủ trình độ nghiệp vụ, chuyên môn thực hiện công việc theo yêu cầu. * Về xây dựng đơn giá tiền lương: - Đối với doanh nghiệp Nhà nước nói chung: Giám đốc doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo xây dựng và đăng ký định mức lao động theo quy định. - Đối với doanh nghiệp được xếp hạng đặc biệt: Tổng Giám đốc có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo xây dựng và đăng ký mức lao động theo hướng dẫn tại Thông tư số 14/LĐTBXH-TT ngày 10/4/1997 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; xây dựng đơn giá tiền lương báo cáo Hội đồng quản trị hoặc Bộ quản lý ngành, lĩnh vực (nếu là 22 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 23. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com tổng Công ty 90/TT được xếp hạng đặc biệt) xem xét, có công văn gửi Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề nghị thẩm định và giao đơn giá tiền lương. Các doanh nghiệp phải tiến hành xây dựng đơn giá tiền lương từ quý IV năm báo cáo để gửi cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền kịp thẩm định và giao đơn giá tiền lương vào quý I năm kế hoạch. * Thủ tục hành chính đề nghị duyệt đơn giá tiền lương: Theo phân cấp và tổ chức quản lý, sau khi xây dựng đơn giá tiền lương, doanh nghiệp có công văn gửi cơ quan có thẩm quyền thẩm định và giao đơn giá tiền lương theo quy định tại điểm 2 nói trên; Công văn gửi kèm các biểu sau: - Biểu trình xây dựng đơn giá tiền lương theo mẫu số 3a và số 3b. - Đối với doanh nghiệp có nhiều đơn vị thành viên và có nhiều đơn giá tiền lương thì lập biểu tổng hợp đơn giá tiền lương theo mẫu số 4. * Báo cáo tình hình thực hiện lao động, tiền lương và thu nhập. Vào quý I chậm nhất là tháng 4 năm kế hoạch, doanh nghiệp phải báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền giao đơn giá tình hình thực hiện lao động, tiền lương và thu nhập của năm trước liền kề theo mẫu số 5 kèm theo Thông tư 13/ LĐTBXH-TT ngày 10/4/1997. 2.3.4. Xác định quỹ tiền lương thực hiện theo kết quả sản xuất kinh doanh. * Điều kiện xác định quỹ tiền lương thực hiện: - Các chỉ tiêu tổng sản phẩm hàng hoá (kể cả sản phẩm quy đổi), tổng doanh thu, chi phí, lợi nhuận thực hiện được xác định theo quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp Nhà nước ban hành kèm theo nghị định số 59/ CP ngày3/10/1996 của Chính phủ. Trong các chỉ tiêu nêu trên, nếu có yếu tố tăng hoặc giảm do nguyên nhân khách quan, không tính đến khi xây dựng đơn giá tiền lương thì phải loại trừ khi xác định quỹ tiền lương thực hiện. 23 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 24. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com - Trước khi xác định quỹ tiền lương thực hiện, doanh nghiệp phải đánh giá và xác định các khoản nộp ngân sách Nhà nước, lợi nhuận thực hiện và so sánh với năm trước đó. Nếu các chỉ tiêu này không đảm bảo đủ điều kiện được áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm theo quy định tại tiết b.3, điểm 2 mục III của thông tư 13/ LĐTBXH-TT ngày 10/4/1997 thì doanh nghiệp phải trừ lùi quỹ tiền lương thực hiện cho đến khi đảm bảo đủ điều kiện theo quy định nói trên. * Xác định quỹ tiền lương thực hiện : - Căn cứ vào đơn giá tiền lương do cơ quan có thẩm quyền giao và kết quả sản xuất, kinh doanh, quỹ tiền lương được xác định như sau : Vth = (Vđg x Csxkd) + Vpc +Vbs + Vtg Trong đó : Vth : Quỹ tiền lương thực hiện Vđg : Đơn giá tiền lương do cơ quan có thẩm quyền giao Csxkd : Chỉ tiêu sản xuất kinh doanh theo tổng sản phẩm hàng hóa thực hiện, hoặc doanh thu (doanh số thực hiện), hoặc tổng thu trừ tổng chi (không có tiền lương), hoặc lợi nhuận thực hiện ứng với chỉ tiêu giao đơn giá tiền lương Vpc : Quỹ các khoản phụ cấp lương và các chế độ khác (nếu có) không được tính trong đơn giá trong quy định (ví dụ : phụ cấp thợ lặn, chế độ thưởng an toàn hàng không...), tính theo số lao động thực tế được hưởng ứng với từng chế độ. Vbs : Quỹ tiền lương bổ sung, chỉ áp với các doanh nghiệp được giao đơn giá tiền lương theo đơn vị sản phẩm. Quỹ tiền lương bổ sung trả cho thời gian thực tế không tham gia sản xuất được hưởng lương theo chế độ quy định của số công nhân viên trong doanh nghiệp, mà khi xây dựng định mưc lao dộng không tính đến, bao gồm : quỹ tiền lương nghỉ phép năm, nghỉ việc riêng, nghỉ lễ tết, nghỉ theo chế đọ lao động nữ, hội họp, học tập... theo quy định của Bộ luật Lao động 24 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 25. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com Vtg : Quỹ tiền lương làm thêm giờ được tính theo số giờ thực tế làm thêm nhưng không vượt quá quy định của Bộ Luật lao động. - Khi quyết toán quỹ tiền lương thực hiện theo đơn giá được giao, nếu tiền lương thực hiện bình quân của người lao động (tính theo số lao động định mức) trong doanh nghiệp cao hơn 2 lần mức lương bình quân chung do Bộ LĐTBXH thông báo thì doanh nghiệp chỉ được quyết toán tổng quỹ tiền lương thực hiện ững với mức tiền lương bình quân của lao động (tính theo số lao động định mức) trong doanh nghiệp bằng hai lần mức lương bình quân được thông báo. - Các doanh nghiệp chưa xây dựng định mức lao động và chưa có đơn giá tiền lương được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì quỹ tiền lương thực hiện được xác định theo số lao động thực tế bình quân sử dụng nhân với hệ số mức lương bình quân của doanh nghiệp do cơ quan có thẩm quyền giao đơn giá quyết định với mức lương tối thiểu chung do Chính phủ quy định (tại thời điểm thực hiện từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 là 210.000đ/tháng). Tổng quỹ tiền lương thực hiện được xác định nói trên là chi phí hợp lệ trong giá thành hoặc phí lưu thông, đồng thời làm căn cứ để xác định lợi tức chịu thuế của doanh nghiệp. 2.3.5. Giao đơn giá tiền lương và quy chế phân phối, trả lương trong doanh nghiệp. * Giao đơn giá tiền lương trong doanh nghiệp. Căn cứ vào đơn giá tiền lương do cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, trên cơ sở cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, sau khi trao đổi ý kiến với ban chấp hành Công Đoàn cùng cấp, Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc các doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị), xem xét và giao đơn giá tiền lương cho các đơn vị thành viên (hạch toán độc lập hoặc phụ thuộc). Việc giao đơn giá tiền lương cần chú ý một số nội dung sau: 25 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 26. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com - Đơn giá tiền lương được giao phải gắn với chỉ tiêu kế hoạch sản xuất, kinh doanh có hiệu quả nhất; - Hệ số điều chỉnh tăng thêm để tính đơn giá tiền lương cho từng đơn vị thành viên có thể khác nhau tuỳ vào hiệu quả sản xuất, kinh doanh nhưng không vượt quá hệ số điều chỉnh tăng thêm tối đa là 1,5 lần so với mức tối thiểu theo quy định tại mục III Thông tư 13/LĐTBXH - TT ngày 10 tháng 4 năm 1997. - Được trích lập quỹ lương dự phòng tối đa là 7% tổng quỹ tiền lương kế hoạch (Vkh) để xây dựng đơn giá tiền lương được giao nhằm điều chỉnh và khuyến khích các đơn vị thành viên hoàn thành kế hoạch sản xuất, kinh doanh của cả doanh nghiệp. Quỹ dự phòng này phải được phân bổ hết trước khi quyết toán tài chính năm: - Sau khi quyết toán tài chính, nếu quỹ tiền lương thực hiện theo đơn giá được giao thì phần chênh lệch được trích lập quỹ dự phòng cho năm sau nhằm ổn định thu nhập của người lao động trong trường hợp sản xuất, kinh doanh giảm do những nguyên nhân bất khả kháng. Mức quỹ dự phòng do Giám đốc thoả thuận với ban chấp hành công đoàn cùng cấp quyết định và không được sử dụng vào mục đích khác; - Việc giao đơn giá và quỹ tiền lương kế hoạch cho các đơn vị thành viên khi tổng hợp lại không vượt quá đơn giá và quỹ tiền lương kế hoạch do cấp có thẩm quyền phê duyệt. * Quy chế phân phối và trả lương trong các đơn vị thành viên: - Căn cứ vào đơn giá tiền lương được giao, các đơn vị thành viên có toàn quyền phân phối quĩ tiền lương và trả lương gắn với năng xuất, chất lượng và hiệu quả sản xuất, kinh doanh cho từng đơn vị, bộ phận và cá nhân người lao động thuộc quền quản lý trên cơ sở quy chế phân phối, trả lương. Bản quy chế phân phối, trả lương cho đơn vị thành viên phải được tổ chức công đoàn cùng cấp thoả thuận trước khi ban hành và phổ biến đến từng người lao động. Sau đó đăng ký với Sở Lao động-Thương Binh và xã 26 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 27. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com hội địa phương (nếu doanh nghiệp thuộc địa phương quản lý) hoặc với cơ quan giao đơn giá tiền lương (nếu doanh nghiệp thuộc Trung ương quản lý). - Việc quy định trả lương cho từng bộ phận, cá nhân người lao động theo qui chế chủ yếu phụ thuộc vào năng suất, chất lượng, hiệu quả công tác, giá trị cống hiến của từng bộ phận, cá nhân người lao động, không phân phối bình quân. Đối với lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, giỏi, giữ vai trò đóng góp quan trọng cho việc hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của đơn vị thì mức tiền lương và thu nhập phải được trả thoả đáng. Đối với lao động làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ, phục vụ giản đơn, phổ biến thì mức lương trả cần cân đối với mức lương của lao động trên cùng địa bàn, không tạo ra sự chênh lệch thu nhập quá bất hợp lý, gây mất cân bằng xã hội. Chênh lệch về tiền lương và thu nhập giữa lao động phục vụ, giản đơn với lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, giỏi trong nội bộ đơn vị do đơn vị xem xét qui định cho phù hợp, bảo đảm chống phân phối bình quân. Tóm lại, cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập trong các doanh nghiệp nhà nước được thể hiện trên những điểm sau: - Mức tiền lương tối thiểu, hệ thống thang, bảng lương, các chế độ phụ cấp lương do Nhà nước ban hành làm căn cứ để thực hiện các vấn đề: + là thang giá trị để tính toán đơn giá tiền lương của doanh nghiệp + là căn cứ tính toán thếu thu nhập doanh nghiệp + là cơ sở để thực hiện các chế độ BHXH, BHYT - Về cơ chế tiền lương: + Nhà nước xác định đơn giá tiền lương của doanh nghiệp ở đầu vào trên cơ sở định mức lao động trung bình tiên tiến do doanh nghiệp xây dựng và các thông số tiền lương do Nhà nước qui định + Bảo đảm quan hệ tiền lương hợp lý giữa các doanh nghiệp, tiền lương thực hiện bình quân của các doanh nghiệp cao nhất không quá 3 lần tiền lương bình quân chung của các doanh nghiệp được giao đơn giá tiền lương. 27 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 28. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com + Căn cứ đơn giá tiền lương được giao và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Giám đốc được toàn quyền phân phối quỹ tiền lương và trả lương cho người lao động. Giám đốc xây dựng quy chế trả lương, trả thưởng cho người lao động trong doanh nghiệp trên cơ sở nguyên tắc phân phối theo lao động, gắn tiền lương, tiền thưởng với năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc của từng người, khuyến khích những người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, tay nghề giỏi. 28 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 29. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com II. Ý NGHĨA CỦA VIỆC HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ TIỀN LƯƠNG, THU NHẬP TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 1. Vai trò của việc xây dựng và quản lý tốt tiền lương * Người lao động nhận được mức lương thoả đáng sẽ là động lực kích thích năng lực sáng tạo làm tăng năng suất lao động. Muốn dẫn dụ ai làm việc theo ý ta chỉ có cách là làm cho họ phấn khởi khi làm việc bằng cách tìm hiểu nhu cầu và ước vọng của họ. Người lao động chỉ quan tâm đến công việc và tập trung hết sức vào công việc khi họ cảm thấy hài lòng với tiền lương thích đáng, cuộc sống gia đình ổn định. Trách nhiệm và tự giác chỉ có ở người lao động khi họ cảm thấy mình được quan tâm và được tôn trọng. Năng suất lao động cao là sự kết hợp của sự tập trung, kỹ năng trách nhiệm và tự giác. Ngược lại nếu tiền lương không thoả đáng sẽ dẫn đến một loạt các vấn đề: lãng phí lao động, lãng phí nguyên vật liệu, di chuyển lao động... * Tiền lương là nguồn cung ứng sự sáng tạo, sức sản xuất, năng lực sản xuất trong quá trình sản sinh ra các giá trị gia tăng. Năng suất lao động tăng đồng nghĩa với lợi nhuận doanh ngiệp tăng do đó nguồn phúc lợi của doanh nghiệp mà người lao động nhận lại cũng sẽ tăng. Đó là phần bổ xung cho tiền lương, tăng thu nhập, tăng lợi ích của người lao động. Hơn nữa khi lợi ích của người lao động được đảm bảo sẽ tạo ra sự gắn kết cộng đồng những người lao động với mục tiêu và lợi ích của doanh nghiệp, xoá bỏ sự ngăn cách giữa chủ và người làm thuê, làm cho người lao động có trách nhiệm hơn đối với doanh nghiệp. Đó là phản ứng dây truyền tích cực của tiền lương. Ngược lại nếu doanh nghiệp trả tiền lương không hợp lý hoặc vì mục tiêu lợi nhuận thuần tuý mà không chú đến lợi ích người lao động thì nguồn nhân công ssẽ có thể bị giảm sút về chất lượng làm hạn chế các động cơ cung ứng sức lao động, nó được biểu hiện bằng tình trạng cắt xén thời gian làm việc, lãng phí nguyên vật liệu và thời gian sử dụng thiết bị... 29 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 30. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com Mâu thuẫn giữa chủ và thợ sẽ có thể dẫn đến đình công, bãi công, đồng thời là sự di chuyển lao động, doanh nghiệp mất đi những người lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao. Một nhà quản trị đã nói: " Nếu ta cắt xén của những người làm công cho ta thì ngay lập tức họ sẽ cắt xén lại của ta và khách hàng của ta." * Tăng mức lương với mục đích tối thiểu hoá các chi phí đầu vào của doanh nghiệp. Sức lao động là yếu tố đầu vào chính yếu của quá trình sản xuất kinh doanh cho dù với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật các công nghệ mới được ra đời và ứng dụng nhanh chóng vào sản xuất với mức độ cơ khí hoá, tự động hoá tối đa thì vai trò lao động sống vẫn không thể phủ nhận mà nó ngày càng thể hiện được tầm quan trọng của mình thông qua sức mạnh của trí tuệ trong việc phát minh và ứng dụng các kỹ thuật vào quá trình sản xuất. Sức lao động là cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp, nó kết hợp với các yếu tố khác để tạo ra sản phẩm. Song theo nguyên tắc hình thành lợi nhuận sức lao động lại là yếu tố phụ thuộc. Nó không quyết định mức sản lượng tối ưu mà ngược lại mức sảnlượng tối ưu quyết định số lao động cần thuê. Kinh tế học gọi nhu cầu về các yếu tố sản xuất nói chung và sức lao động nói riêng là nhu cầu dẫn xuất, đó không phải là nhu cầu trực tiếp cuối cùng mà là nhu cầu được suy ra từ các nhu cầu khác do mong muốn của doanh nghiệp trong việc sản xuất ra sản phẩm. TL, TN của người Năng suất lao Chi phí LĐ/1 lao động tăng động tăng SP giảm Lợi nhuận tăng Chi phí TL/1 SP giảm 30 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 31. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com 2. Ý nghĩa của việc hoàn htiện cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước Các chức năng của tiền lương đã thể hiện vai trò rất quan trọng của nó; nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay vai trò của tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước lại càng thể hiện rõ hơn. Nên tất yếu một đòi hỏi đặt ra là phải quản lý tốt tiền lương, thu nhập và ngày càng hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước nhằm mục đích: + Đưa tiền lương trở thành thước đo giá trị sức lao động. tiền lương gắn với năng suất, chất lượng và hiệu quả công viêc. Thực hiện triệt để "tiền tệ hoá" tiền lương trong khu vực sản xuất kinh doanh. + Tiền lương đảm bảo tái sản xuất sức lao động, tiền lương trở thành thu nhập chính, kích thích người lao động làm việc phát huy với mọi khả năng tiềm tàng của con người. Từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát huy vai trò đòn bẩy kinh tế của tiền lương. + Đảm bảo phân phối công bằng, hợp lý. Tiền lương phải trả theo lao động, chống phân phối bình quân và đảm bảo quan hệ hợp lý về thu nhập giữa các nghề, ngành. + Khắc phục những hạn chế của cơ chế quản lý cũ, để từ đó Nhà nước quản lý và kiểm soát được tiền lương thu nhập bằng các công cụ điều tiết thích hợp, củng cố trật tự kỷ cương pháp luật của Nhà nước. 31 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 32. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com PHẦN II THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ TIỀN LƯƠNG, THU NHẬP TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC. I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC QUẢN LÝ TIỀN LƯƠNG, THU NHẬP TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC . 1. Đặc điểm của các doanh nghiệp Nhà nước Sự phân biệt giữa hai chế độ Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa được nhìn nhận thông qua tiềm lực kinh tế do ai nắm giữ. Trong xã hội tư bản thì những tập đoàn kinh tế thì những tập đoàn tư bản mạnh nắm giữ phần lớn của cải trong nền kinh tế quốc dân và đóng vai trò là kẻ thống trị chi phối Nhà nước do nó tạo ra. Trong xã hội chủ nghĩa, Nhà nước là Nhà nước của dân, do dân và vì dân chứ không phải là Nhà nước chịu sự chi phối của riêng tập đoàn kinh tế tư bản nào. Để đóng vai trò là Nhà nước của dân thì ngoài chức năng quản lý xã hội nói chung, cần và nhất định phải nắm giữ phần lớn tiềm lực kinh tế đủ mạnh để chi phối nền kinh tế quốc dân, vì lợi ích của toàn dân tộc. Mà trong đó các xí nghiệp quốc doanh do Nhà nước nắm giữ chiếm vị trí quan trọng. Trong điều kiện kinh tế hiện nay, không chỉ có các xí nghiệp quốc doanh mà còn có các xí nghiệp của các thành phần kinh tế khác cùng tồn tại. Nếu các doanh nghiệp Nhà nước bị yếu thế so với các thành phần kinh tế khác thì Nhà nước khó có thể hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình và ý nghĩa một Nhà nước do dân, vì dân khó mà thực hiện được. Để các doanh nghiệp Nhà nước giữ được vai trò chủ đạo thì nó phải đảm bảo những yêu cầu sau: - Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động thực sự có hiệu quả, góp phần tăng ngân sách Nhà nước hoặc giảm tối đa phần bù lỗ (đối với các doanh 32 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 33. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com nghiệp thuộc lĩnh vực an ninh quốc phòng và các doanh nghiệp Nhà nước đảm bảo trong các lĩnh vực công cộng). - Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu quả trong các lĩnh vực then chốt chi phối nền kinh tế quốc dân (tài chính, tín dụng, ngân hàng, bưu chính viễn thông, điện, xăng, dầu...) - Doanh nghiệp Nhà nước nắm vai trò then chốt, đi đầu trong các lĩnh vực tiên tiến cao cấp - Doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò liên kết được các thành phần kinh tế trong sự phát triển, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đồng thời làm gương cho sự thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật và các chế độ chính sách của Nhà nước. - Doanh nghiệp Nhà nước thực hiện có hiệu quả quan hệ đối ngoại, tạo chỗ dựa vững chắc thực hiện chiến lược mới. - Góp phần giải quyết công ăn việc làm. Từ những đòi hỏi trên của công cuộc đổi mới doanh nghiệp Nhà nước được định nghĩa như sau: Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh doanh do Nhà nước thành lập đầu tư và quản lý với tư cách chủ sở hữu. Doanh nghiệp Nhà nước đồng thời là một pháp nhân kinh tế, hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật. Như vậy doanh nghiệp Nhà nước có những đặc điểm sau: - Nguồn vốn ban đầu do Nhà nước đầu tư. - Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo định hướng của Nhà nước nhưng tự thực hiện hoạch toán kinh tế. Doanh nghiệp Nhà nước được giao quyền tự chủ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước. Do vậy để xác định mức thực mà các doanh nghiệp Nhà nước phải đóng góp thì Nhà nước phải quản lý được các chi phí đầu vào và doanh thu đầu ra trong đó có chỉ tiêu tiền lương. 33 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 34. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com 3. Đặc điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp Nhà nước Nhìn chung hiện nay cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ của các doanh nghiệp Nhà nước đều đã quá lạc hậu. Trong tổng thu ngân sách, khu vực DNNN chiếm 60%. Tuy nhiên, theo thời gian hình thành thì máy móc, thiết bị và phương tiện vận tải được sản xuất cách đây trên 30 năm chiếm 15%, cách đây trên 10 năm chiếm 33%, cộng chung là 48%, tờ 10 năm trở lại đây là 52%, trong đó tờ 1996 trở lại đây là 48%. Theo thời gian sử dụng thì có 50% tài sản sử dụng từ 1-5 năm còn 50% tài sản sử dụng trên 5 năm. Theo đánh giá của Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường thì máy móc thiết bị của chúng ta đã lạc hậu so với thế giới khoảng 20-30 năm. Trong các doanh nghiệp Nhà nước, năng suất lao động thấp và mức tiêu hao nguyên vật liệu gấp từ 2 đến 3 lần so với doanh nghiệp nước ngoài có máy móc thiết bị hiện đại. Có thể so sánh qua tỷ lệ vốn đầu tư cho một lao động của doanh nghiệp Nhà nước 20-25 triệu đồng. Trong tỷ lệ này của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 45.000-102.000 USD/ một chỗ làm việc, cao hơn nhiều so với khu vực Nhà nước. Nếu doanh nghiệp Nhà nước hoạt động với năng suất chất lượng sản phẩm thấp, không có sức cạnh tranh trên thị trường. Làm ăn thua lỗ cầm chừng là khó tránh khỏi, ảnh hưởng đến việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ được Nhà nước giao, đồng thời cũng ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động. Tiền lương thì bị cắt xén chứ chưa nói đến tiền thưởng. Tiền lương chỉ ở mức tối thiểu. Tuy nhiên hiện nay, một số các doanh nghiệp, các tổng công ty được trang bị những thiết những máy móc thiết bị hiện đại. Nhưng phần lớn chủ yếu phần lớn chủ yếu vẫn là do độc quyền nên kết quả sản xuất kinh doanh tốt, doanh thu cao, lợi nhuận lớn như xăng dầu, hàng không, điện... Thì khi đó các doanh nghiệp lại tìm cách bớt xén, hợp lý hoá các khoản chi để phân chia cho các cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp, thu nhập có doanh 34 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 35. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com nghiệp lên tới 4 - 5 triệu đồng, gấp hàng chục lần thu nhập của doanh nghiệp có mức lương thấp. 3. Đặc điểm về lao động và bộ máy quản lý Mặc dù không còn là hệ thống doanh nghiệp duy nhất trong nền kinh tế thị trường như trước kia nhưng hiện nay nhìn chung các doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn nắm giữ được phần lớn lao động kỹ thuật có trình độ bậc cao, nhiều năm trong nghề được đào tạo có hệ thống có khả năng đảm nhận những công việc đòi hỏi kỹ thuật cao, nếu biết khai thác và sử dụng có hiệu quả thì đó cũng là một lợi thế của các doanh nghiệp Nhà nước so với các loại hình doanh nghiệp khác. Nhưng với việc buộc các doanh nghiệp phải tự hoạch toán kinh doanh, lời ăn lỗ chịu. Quỹ tiền lương không được cấp phát từ nhân sách bằng số lao động nhân với hệ số cấp bậc công nhân và hệ số phụ cấp bình quân như trước kia mà quỹ tiền lương sẽ phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nên đã khiến cho một bộ phận lớn người lao động phải nghỉ chờ việc hoăc chuyển sang các thành phần kinh tế khác do doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Trong bộ máy quản lý của doanh nghiệp chỉ có 3 người là viên chức nhà nước, đó là giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng, là cầu nối giữa Nhà nước và doanh nghiệp, được Nhà nước bổ nhiệm đứng ra giúp Nhà nước quản lý doanh nghiệp và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được Nhà nước giao, còn các bộ phận khác quan hệ với doanh nghiệp thông qua hợp đồng lao động. Nhưng với bộ máy gián tiếp thì thường ký kết các hợp đồng dài hạn. Còn người lao động trực tiếp thì tuỳ vào tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà tăng thêm hay giảm bớt cho phù hợp với khối lượng công việc. 4. Doanh nghiệp với vấn đề tiền lương: Bất cứ hoạt động sản xuất, kinh doanh nào của doanh nghiệp cũng phải nhằm đến mục tiêu là lợi nhuận. Muốn đạt được mục tiêu này thì doanh nghiệp phải tính toàn cụ thể các yếu tố chi phí, trong đó có chi phí lao động 35 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 36. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com cho phù hợp. Trong kinh tế thị trường doanh nghiệp phải nhận thức đúng vai trò của mình với vấn đề tiền lương thể hiện cụ thể: - Trước hết doanh nghiệp phải coi việc xác định tiền lương và trả lương có liên quan trực tiếp đến sự tồn tại, cạnh tranh và phát triển của chính bản thân doanh nghiệp. - Trả lương cho người lao động là công việc của doanh nghiệp chứ không phải của các ngành hoặc Chính phủ, vì vậy doanh nghiệp phải luôn chủ động quản lý tiền lương và các chi phí có liên quan tốt hơn, đồng thời đảm bảo việc trả lương nằm trong khuôn khổ luật pháp và chính sách tiền lương của Nhà nước cho phép. Để quản lý tốt tiền lương thì doanh nghiệp phải có các qui định tốt về tiền lương có thể điều chỉnh linh hoạt trong phạm vi doanh nghiệp và ít chịu sự can thiệp từ bên ngoài. Hệ thống các quy định về tiền lương của doanh nghiệp bao gồm các yếu tố sau: + Phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và nằm trong khuôn khổ luật pháp quy định. + Có tính nhạy cảm để tạo ra công bằng và sự phát triển. + Dễ hiểu và không quá phức tạp. + Phải được xây dựng trên cơ sở bàn bạc công khai và dựa vào kết quả đàm phán, thương lượng. Cùng với hệ thống các quy định về tiền lương, doanh nghiệp phải chú ý tới mối quan hệ giữa chi phí tiền lương với khả năng cạnh tranh, hiệu quả mà trong đó lợi nhuận và năng xuất lao động là sự biểu hiện tổng hợp nhất. Do tiền lương là yếu tố chi phí sản xuất nên trong điều kiện chi phí vật chất (C) và giá sản phẩm, dịch vụ không đổi thì sự thay đổi chi phí tiền lương (V) sẽ tác động tới khả năng cạnh tranh và lợi nhuận của doanh nghiệp. Muốn tăng khả năng cạnh tranh với lợi nhuận thì bắt buộc doanh nghiệp phải giảm chi phí lao động bằng hai cách hoặc giảm tiền lương hoặc tăng năng suất lao động. Trong hai biện pháp này thì giảm tiền lương tuyệt 36 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 37. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com đối thường không nhận được sự đồng tình của người lao động nên chỉ được áp dụng trong một số trường hợp nhất định, còn giảm lương tương đối thông qua tăng năng suất lao động thì ít gặp sự phản đối của người lao động và là biện pháp được áp dụng phổ biến. Vì vậy cần phải quan tâm tới năng suất lao động và các biện pháp tăng năng suất lao động. Thực chất năng suất lao động cũng là yếu tố quan trọng tác động đến lợi nhuận và tính cạnh tranh vủa doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật doanh nghiệp và Bộ luật lao động đã quy định quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp về tiền lương như sau: - Xây dựng, áp dụng các định mức lao động, đơn giá tiền lương trên đơn vị sản phẩm, riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước thì phải trong khuôn khổ các định mức, đơn giá của Nhà nước. - Được tuyển chọn, thuê mướn, bố trí, sử dụng, đào tạo lao động, lựa chọn các hình thức xác địmh chi phí tiền lương cho phù hợp, lựa chọn các hình thức trả lương theo thời gian, theo sản phẩm... Được quyền quyết định mức lương và trả cho người lao động trên cơ sở đơn giá tiền lương theo sản phảam hoặc chi phí dịch vụ và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. - Được quyền chủ động sử dụng phần lợi nhuận còn lại để mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, chia cho cổ và thưởng cho người lao động theo cống hiến của mỗi người vào kết quả sản xuất kinh doanh trong năm. - Doanh nghiệp phải thực hiện các nghĩa vụ đối với người lao động theo quy định của Bộ Luật lao động, đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động và tạo điều kiện cho người lao động tham gia quản lý doanh nghiệp. Như vậy về cơ sở khoa học đã khẳng định vai trò quan trọng của doanh nghiệp trong việc xác định tiền lương và trả lương cho người lao động. Vai trò này đã được thừa nhận và luật pháp hoá. Tuy nhiên để thực hiện tốt vai trò của mình thì doanh nghiệp phải tăng cường tính chủ động 37 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com
  • 38. Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com trong việc xây dựng các quy định tiền lương cụ thể, phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp và trong khuôn khổ pháp luật. Đồng thời cơ quan quản lý Nhà nước phải hướng dẫn cụ thể các quy định có tính nguyên tắc nêu trên phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp để tạo ra hành lang pháp lý hoàn chỉnh, làm cơ sở để các doanh nghiệp thực hiện. Trong việc quy định cụ thể chính sách tiền lương phải tôn trọng lý thuyết của người câu cá là "con cá quyết định mồi của nó là gì chứ không phải là người đi câu cá ", nghĩa là chỉ nêu quy định tạo ra hành lang pháp lý chứ không phải quy định cụ thể việc trả lương. Vì cuối cùng thì tiền lương vẫn do thị trường, do doanh nghiệp quyết định, chứ không phải do người làm chính sách chung quyết định. 5. Thực trạng các doanh nghiệp Nhà nước Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII trình đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Thực hiện nhất quản chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần...; trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế hợp tác xã dần trở thành nền tảng... Kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, nắm những vị trí then chốt, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trong và là một công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế”. Đó là quan điểm, phương hướng, nhưng thực trạng doanh nghiệp Nhà nước hiện tại ra sao? Trước hết về số lượng, tính đến nay tổng số doanh nghiệp Nhà nước là 5280. Trong tổng số: doanh nghiệp Nhà nước do Trung ương quản lý là 1.908, doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý là 3.372. Tình hình tài chính, lao động của các doanh nghiệp Nhà nước Biểu số 1 Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Chỉ tiêu Tổng số DNNN 6052 5740 5789 5571 5280 Tổng số laođộng(ng) 1.124.118 1.543.083 1.642.370 1.740.039 1.702.318 Doanh thu (tr.đ) 20.684.757 25.144.082 27.818.045 33.780.427 29.741.144 Lợi nhuận (tr.đ) 179.362.514 236.998.165 269.928.056 264.967.799 259.810.429 Nộp ng.sách (tr.đ) 10.455.111 11.250.053 12.169.787 14.562.270 13.111.126 38 http://luanvan.forumvi.com email: luanvan84@gmail.com