1. Nguyễn Thế Khoa
NHỮNG
KỲ QUAN XANH
Tiểu luận - Chân dung - Tạp bút
Nhà xuất bản Sân khấu 2012
1
2. Mục lục
Tiểu luận – chân dung
1. Có một gánh Xẩm Hà Nội
2. Xuân Hoạch và những người ngược thời gian
3. Ghi từ đêm hát Xẩm Trống quân
4. Sự phục sinh thiên tài âm nhạc Văn Cao
5. Nhạc sĩ của tình ca và quê hương
6. Hoàng Lê và điệu hát Vọng Kim lang
7. Văn Chung – người tiên phong Việt hoá tân nhạc
8. Dù có đi bốn phương trời
9. Cuộc hạnh ngộ trong “Xuân và tuổi trẻ”
10. Bài hát Người Hà Nội với ngày toàn quốc kháng chiến
11. Phạm Duy và cuộc trở về “trong sự bao dung đánh thức lòng người”
12. Nhà Trần Văn Khê
13. Đặng Thái Sơn sau 25 năm giải Chopin
14. Nghe Ánh Tuyết hát Trịnh Công Sơn
15. Để có một đời sống âm nhạc hài hoà cân xứng
16. Hoàng Cầm - bất chợt vĩnh hằng
17. Xuân Diệu và quê mẹ
18. Khát vọng văn chương và nỗi đau ngưòi mẹ
19. Thì tình yêu chưa thể đã yên nằm
20. Hãy cứ vẽ như không biết vẽ thì đã sao?
21. Nguyễn Thị Hiền với sự ám ảnh của những con chữ
22.Thế giới tượng Tạ Quang Bạo
23. Trần Bảng và duyên nghiệp chèo
24. Học hiểu khám phá ở tuổi 93
2
3. 25. Viễn Châu với tân cổ giao duyên và vọng cổ hài
26. Kỳ nữ Australia với Nguyệt Cô - Thị Mầu
27. Cực đoan phiến diện sẽ khó tiếp cận chân lý
28. Với câu xuân nữ, nhịp song loan
29. Có một đêm trắng chèo
30. Đạo diễn trẻ nhìn từ Nhà hát Cải lương
31. Môi trưòng nghệ thuật biểu diễn
và cảm thụ thẩm mỹ của người Hà Nội
32. Thử bàn về những đặc điểm nổi bật của sân khấu Cải lương
Đào Tấn và Tuồng
33. Đào Tấn – đoá mai giữa chốn bụi lầm
34. Một nghệ sĩ thiên tài, một chính khách mẫu mực
35. Đào Tấn và gia đình Nguyễn Tất Thành
36. Giai đoạn đỉnh cao trong sự nghiệp tuồng Đào Tấn
37. Tân dã đồn - vở tuồng đầu tay của Đào Tấn
38. Cổ thành và hào quang Trương Phi
39. Cái lớn của Đào Tấn trong bộ tuồng Phong thần
40. Diễn Võ đình – Bi kịch lạc quan
41. Đào Tấn và kiệt tác Hộ sanh đàn
42.Cái mới của người anh hùng trong tuồng Đào Tấn
43. Đào Tấn và những cách tân biên kịch
Bút ký quan họ
44. Hành trình sưu tầm nghiên cứu dân ca quan họ
45. Từ những truyền thuyết về nguồn gốc quan họ
46. Một số tục lệ tiêu biểu trong sinh hoạt Quan họ
47. Ứng tác và sáng tác trong dân ca quan họ
48. Lúng liếng ơi, lóng lánh ơi
49. Tài tử quan họ
50. Acappella quan họ
3
4. 51. Chân dung tinh thần của người Kinh Bắc xưa
52. Những bản tình ca bất hủ
53. Đặc trưng ngôn ngữ giao tiếp quan họ
54. Các thể thơ trong ca từ quan họ
55. Đẳng cấp bác học, cổ điển trong chiếc áo văn chương bình dân
56. Hai ngộ nhận lớn trong bảo tồn và phát huy dân ca quan họ
57. Người quan họ làng
Tạp bút
58. Những kỳ quan xanh
59. Thanh bình Bản Giốc
60. Chùa giả sư dỏm và nổi đau văn hoá
61. Chuyện từ căn nhà nhỏ
62. Lẽ công bằng cho hạt gạo
63. Giỗ Tổ Hùng Vương và lễ khao lề thế lính Hoàng Sa
64. Lợi thế Việt Nam?
65. Tan sương đầu ngõ, vén mây lưng trời
66. Lòng dân là la bàn của đổi mới
67. Bảo tàng tâm linh
68. Bình Định gió sanh hương
69. Ngưòi lặng lẽ đi về trong chuyện kể dân gian
70. Phẩm chất kẻ sĩ của một nhà khoa học nhân văn
71.Vũ Tuyên Hoàng – trí tuệ tình yêu
72. Bước ngoặt lớn của tuổi trẻ Nguyễn Tất Thành
73. Ở đâu anh cũng nói đến con người
74. Lê Đại Cang và Lê thị gia phả
4
5. Có một gánh Xẩm Hà Nội
Thế là mùa xuân này, nghệ nhân Hà Thị Cầu không còn cô đơn, bà đã
có những đồng nghiệp trẻ đắm say với những xẩm chợ, chinh bong, huê tình,
nhà trò, thập ân, phồn huê...Có hẳn một gánh Xẩm Hà Nội ra đời và trình
làng tại hội trờng sang trọng của Tổng công ty sách VN, trên Quán âm nhạc
VCTV cùng với một CD “Xẩm Hà Nội” được DIHAVINA đầu tư dàn dựng,
thu âm rất có chất lượng, phát hành rộng rãi phục vụ công chúng.
Họ là các nghệ sĩ Xuân Hoạch (Nhà hát ca múa nhạc VN), Văn Ty
(Viện văn hoá dân gian), Thanh Ngoan (Nhà hát chèo VN), Đoàn Thanh
Bình (Trường đại học sân khấu điện ảnh) và cô “xẩm” trẻ Mai Tuyết Hoa
(Viện Âm nhạc) cùng các nhạc sĩ Hạnh Nhân, Hồng Thái, Lê Cương, Tự
Cường...tập hợp về Trung tâm Phát triển Nghệ thuật Âm nhạc VN của GSTS
Phạm Minh Khang và nhạc sĩ Thao Giang từ vài năm nay trong tâm huyết
chung làm sống lại nghệ thuật hát xẩm, một thể loại diễn xướng âm nhạc hết
sức đặc sắc của dân tộc. Và thế là những “Anh Khoá”, “Giăng sáng vờn
chè”, “Lỡ bớc sang ngang”, “Mục hạ vô nhân” của các thi hào Á Nam
Trần Tuấn Khải, Nguyễn Khuyễn, Nguyễn Bính trong những làn điệu xẩm
chợ, xẩm tàu điện, xẩm xoan, xẩm ba bậc...không chỉ còn trong sách vở, ẩn
trong ký ức hay lưu lạc cùng tiếng hát của một Hà Thị Cầu tại những vùng
quê Ninh Bình, Nam Định mà đã trở lại trong đời sống âm nhạc thủ đô, sống
động và hấp dẫn lạ thường.
Không mộc mạc, dữ dội, tỉnh rụi mà day dứt đến từng câu từng chữ
được như “thần xẩm” Hà Thị Cầu nhưng Xuân Hoạch đầy đặn và ai oán tột
bậc trong xẩm “Anh Khoá” và xẩm “Ba Bậc”, Đoàn Thanh Bình từ tốn mà
thổn thức trong xẩm “Huê tình”, Văn Ty thật sôi động trong xẩm “Mục hạ
vô nhân”, Mai Tuyết Hoa và Thanh Ngoan rất nồng nàn trong điệu xẩm
“Tàu điện” quen thuộc với người Hà Nội mấy mười năm về trước:
Em ơi, em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thơng
Mẹ già thời một nắng hai sương
Chị đi một bứớc trăm đường xót xa
Nghệ sĩ trẻ Mai Tuyết Hoa đã có nhuỵ hơn nhiều trong “Giăng sáng
vườn chè”. Đặc biệt, với xẩm “Chinh bong” và “Lỡ bước sang ngang”,
Thanh Ngoan như đã nhập thần vào xẩm, buồn nhưng không quá lụy, tưng
tửng mà đau đớn, trong veo mà tuyệt vời uẩn khúc:
Nước trong xanh lơ lửng cái con cá vàng
Cây ngô đồng cành biếc cái con chim phượng hoàng nó đậu cành cao
5
6. Thương em phận gái hoa đào
Bởi tham đồng bạc trắng nên em phải vào cái chốn cực thân
“Xẩm Hà Nội” giúp chúng ta hình dung đầy đủ hơn về nghệ thuật
xẩm như nó đã từng tồn tại. Xẩm giống như một loại kể khan (thể loại âm
nhạc trình diễn trờng ca các dân tộc Tây Nguyên) của vùng châu thổ sông
Hồng rất sinh động và giàu sức truyền cảm, với các làn điệu có thể trình diễn
thể thơ lục bát truyền thống và các biến thể. Có thể gọi xẩm là một kiểu hát
thơ mộc mạc, đơn giản mà rất tinh tế, giàu sức chinh phục. Về mặt âm nhạc
nó không chỉ có 8 làn điệu chính như xẩm chợ, xẩm xoan, huê tình, ba bậc,
phồn huê, nữ oán, hát ai, thập ân mà còn sử dụng tài tình các làn điệu dân ca
khác như trống quân, cò lả, sa mạc, hát ru con, vè ví...trong quá trình diễn
tấu để điễn đạt mọi cung bậc tình cảm của con người. Các nghệ sĩ xẩm là
những nghệ sĩ rất chuyên nghiệp và đa năng, hát hay, đàn giỏi. Dàn nhạc
xẩm không chỉ có nhị, trống, phách, thanh la mà còn có bầu, nguyệt, sáo và
các nhạc cụ gõ khác như trống cơm, mõ, sênh tiền, nghĩa là có đầy đủ các
nhạc cụ truyền thống phổ biến. Xem gánh Xầm Hà Nội trình diễn và nghe
CD “Xẩm Hà Nội” ta hiểu vì sao những người hát rong năm xưa đã chọn
xẩm làm phương tiện kiếm sống, bởi quả thật, khó có thể loại âm nhạc nào
dễ đi vào lòng đông đảo công chúng như xẩm...
Trước đây, ta thường coi ca trù là loại âm nhạc của các tao nhân mặc
khách, của các bậc trí thức, học giả, còn xẩm là âm nhạc của những ngời
bình dân. Về ca trù thì không còn gì phải bàn cãi, nhưng nghe “Xẩm chợ”
của NSƯT Hà Thị Cầu và bây giờ là “Xẩm Hà Nội”, có thể dễ dàng nhận
thấy hát xẩm không hoàn toàn “bình dân” như ta vẫn nghĩ, cả về âm nhạc lẫn
nội dung ca từ. Cái thể loại âm nhạc thường đợc trình diễn ở đầu đường góc
chợ, ở trên tàu trên xe bởi những người hát rong khiếm thị này thật ra chứa
đựng nhiều tinh tuý, nhiều bí mật của văn học và âm nhạc bình dân lẫn bác
học của dân tộc. Nhạc sĩ Thao Giang khẳng định hát xẩm là nghệ thuật cao
cấp, tôi rất đồng tình. nhưng có lẽ nên thêm, đó là một nghệ thuật cao cấp rất
bình dân, hoàn toàn bình dân như truyện Kiều của Nguyễn Du, như thơ của
Nguyễn Khuyến, Nguyễn Bính, của Á Nam Trần Tuấn Khải, như Chèo, như
dân ca Quan họ...
Bởi vậy, thưởng thức và khám phá nghệ thuật hát xẩm sẽ là một hạnh
phúc lớn của tất cả chúng ta.
6
7. Xuân Hoạch
và những người ngược thời gian
Cứ đêm thứ bảy hàng tuần, người ta lại gặp ông ở cái sân khấu vỉa hè
chợ đêm Đồng Xuân - Hàng Đào. Nón mê, áo nâu, cặp kính đen của người
khiếm thị, tay nhị, tay bầu, chân gõ trống, ông hát Xẩm giúp vui cho người
đi chơi chợ đêm cùng với những Thanh Ngoan, Văn Ty, Mai Tuyết Hoa,
Hoàng Quế trong gánh “Xẩm Hà Nội” của “ông bầu” Thao Giang. Khi thì
“Anh Khoá” não ruột, “Đón dâu về làng” tình tứ, lúc thì “Sướng khổ vì
chồng” cười cợt, “Tiểu trừ tham nhũng” bừng bừng khí thế. Ngỡ đây là một
ông Xẩm mù thứ thiệt, từng lang thang ở cái chợ nổi danh nhất Hà Nội từ
những năm đầu thế kỷ 20, mất hút đâu vài thập niên, nay đột nhiên trở lại.
Không ai nghĩ người hát Xẩm này là một nghệ sĩ danh tiếng của nhà hát Ca
múa nhạc VN, người chế tác và diễn tấu bầu, nguyệt, đáy hàng đầu đất nước,
người năm nào cũng xuất ngoại vài ba chuyến, từng rong ruổi khắp Hoa Kỳ,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Hà Lan, Anh, Pháp, Đức…Ông là NSND Xuân
Hoạch.
1
Xuân Hoạch kể ông họ Nguyễn, sinh năm Thìn 1952 ở Đông Tân,
Đông Hưng, Thái Bình, vùng quê lúa, quê chèo nổi tiếng xứ Đông. Làng
ông rất tự hào có đội hát múa giá cờ, giá quạt đặc sắc. Các cụ ở đội múa này
đã từng được Elsola Thủy mời đi Pháp, Bỉ, đi Italia diễn vở múa đương đại
“Hạn hán và cơn mưa”. Cả gia đình ông hầu như ai cũng tham gia văn
nghệ, tất nhiên chủ yếu là hát chèo, người hát, người đánh tam, nhị, thanh la.
Riêng ông, trước khi được tuyển vào trường Âm nhạc Việt Nam (nay là
Nhạc viện Hà Nội) cũng từng là một diễn viên chèo nghiệp dư có tiếng ở
quê. Xuân Hoạch vào trường nhạc từ năm 1966, khi mới 14 tuổi, học đàn
nguyệt với thầy Xuân Khải, rồi tốt nghiệp về làm nhạc công đàn nguyệt, tam
ở Đoàn Ca múa TƯ (nay là Nhà hát Ca múa nhạc VN). Chỉ sau hai năm,
Xuân Hoạch đã thành nghệ sĩ độc tấu nguyệt của đoàn nghệ thuật quốc gia
này với các tác phẩm “Tình quân dân” của Xuân Khải và “Mùa sen nhớ
Bác” của Trần Quý. Không dứng ở nguyệt, Xuân Hoạch học thêm đàn đáy,
cây đàn “có một không hai” như nhận định của GSTS Trần Văn Khê. Người
dạy ông là nhạc sư Đinh Khắc Ban. Xuân Hoạch còn nhớ mãi kỷ niệm ông
được chọn solo đàn đáy trong giao hưởng thơ “Rằm tháng Giêng” của nhạc
sĩ Hoàng Đạm phổ thơ Bác Hồ, một tác phẩm âm nhạc đậm chất ca trù. Hồi
ấy, trong đoàn ca múa nhạc TƯ có một dàn nhạc dân tộc được tổ chức theo
biên chế dàn nhạc giao hưởng với hơn 40 nhạc cụ. Xuân Hoạch đã solo đàn
7
8. đáy trên nền một dàn giao hưởng dân tộc như thế. Năm 1995, tại Liên hoan
Nhạc cụ dân tộc toàn quốc. tiết mục độc tấu đàn đáy của Xuân Hoạch được
tặng huy chương vàng và ông được coi là người “nối dõi” xứng đáng người
thầy đàn đáy tuyệt diệu của mình. Rồi Xuân Hoạch lại tự học chơi đàn bầu
và bây giờ sau gần mười lăm năm mê đắm “độc huyền cầm”, theo đánh giá
của nhạc sĩ Thao Giang, Xuân Hoạch là nghệ sĩ biểu diễn đàn bầu số 1 đất
nước. Tiếng đàn đã hay, ngón đàn đã cao cường, Xuân Hoạch lại có thể vừa
độc tấu bầu vừa tự đệm bộ gõ bằng cả hai chân, hai tay, một việc có thể nói
là kỳ tài, khó ai làm nổi. Nhạc sĩ Thao Giang cho biết, trong một lần tham
gia Liên hoan âm nhạc truyền thống châu Á tại Nhật Bản, tiết mục độc tấu
bầu và tự đệm bộ gõ bài Bốp (nhạc tuồng) của Xuân Hoạch đã làm bạn bè
thế giới kinh ngạc, thán phục khả năng siêu đẳng của một nhạc sĩ Việt.
Không có gì lạ, khi tiết mục này của Xuân Hoạch giờ luôn là một cái “đinh”
trong các chương trình xuất ngoại của Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam. Hơn
8 năm nay, Xuân Hoạch đến với Xẩm, thứ âm nhạc được coi là của những
người hát rong khiềm thị, những người dưới đáy xã hội, nơi đầu đường, góc
chợ, bến tàu, sân ga, tưởng đã mãi chìm sâu vào quên lãng. Sau những
chuyến đi cùng cụ Hà Thị Cầu, “người hát Xẩm cuối cùng của thế kỷ 20”
như giới truyền thông vẫn gọi, ông chợt nhận ra thứ âm nhạc vô cùng mộc
mạc, dân giã này lại có những khả năng vô cùng đặc biệt, có thể coi là một
loại “thần nhạc” của âm nhạc truyền thống VN. Và ông lại đắm mình vào
Xẩm để khám phá cho được những bí ẩn huyền diệu của nó.
2
Nếu cụ Hà Thị Cầu được coi là “người hát Xẩm cuối cùng của thế kỷ
20” thi Xuân Hoạch cùng với Thanh Ngoan, Văn Ty, Đoàn Thanh Bình,
Thuý Ngần, Mai Tuyết Hoa sẽ được coi là “những người hát Xẩm đầu tiên
của thế kỷ 21”. Đó là những người đã tụ hợp lại trong một tổ chức có cái tên
rất hoành tráng là Trung tâm Phát triển Nghệ thuật Âm nhạc VN, thuộc Hội
Nhạc sĩ VN, do GSTS Minh Khang và nhạc sĩ Thao Giang sáng lập. Cái tên
thì hoành tráng thế nhưng trụ sở của cơ quan này lại khiêm tốn lạ thường:
một căn phòng chưa tới 10m2 thuê của Viện Mỹ thuật, anh chị em vẫn gọi
đùa là “chuồng cu của Thao Giang”. Ấy nhưng cái “chuồng cu” đó đã hội tụ
được những con người chung một khát vọng lớn, rất lớn: tìm kiếm, phục hồi,
quảng bá những giá trị tinh hoa, những hạt vàng của âm nhạc dân tộc đã bị
mai một, lãng quên. Và họ bắt đầu từ Xẩm. Sau gần hai năm âm thầm lao
vào các thư viện khai thác tư liệu, gặp gỡ trao đổi với các nhà nghiên cứu,
nhiều lần xuôi ngược Ninh Bình, Thanh Hoá, Hà Tây học hỏi các nghệ nhân,
Trung tâm đã phối hợp với Nhà xuất bản Âm nhạc cho ra đời CD “Xẩm Hà
Nội” vào cuối 2005. Chỉ với 7 tiết mục với những “Giăng sáng vườn chè”,
“Lỡ bước sang ngang”, “Anh Khoá”, “Mục hạ vô nhân”...của các thi tài
Nguyễn Khuyến, Á Nam Trần Tuấn Khải, Nguyễn Bính và các tác giả
khuyết danh khác, Xuân Hoạch và những người bạn đã cho thấy sức quyến
8
9. rủ khó cưỡng của Xẩm, một thứ hương vị âm nhạc thuần Việt, nôm na mà
tinh tế, mộc mạc mà sâu lắng, chất phác lắm mà phiêu linh lắm, rất trần tục
nhưng tuyệt vời trong trẻo, thứ âm nhạc rất tài tình trong việc tìm ra những
con đường ngắn nhất để đi sâu vào các ngóc nghách xa khuất nhất của mọi
tâm hồn Việt. Gánh “Xẩm Hà Nội” của Thao Giang, Xuân Hoạch, Thanh
Ngoan, Văn Ty lập tức được đón nhận nồng nhiệt, mấy nghìn CD hết veo,
VTV, VTC, Truyền hình Hà Nội, Hà Tây làm ngay các chương trình giới
thiệu, Festival Trà từ Lâm Đồng xa xôi cũng mời vào, Ban tổ chức chợ đêm
Đồng Xuân – Hàng Đào mời diễn thường xuyên vào đêm thứ bảy hàng tuần.
Trong gánh “Xẩm Hà Nội”, Xuân Hoạch là một ngôi sao rất được hâm mộ.
Xem Xuân Hoạch hát Xẩm, chứng kiến Xuân Hoạch hướng dẫn Hoàng Quế,
Kiều Loan từng cái luyến láy rất khó, rất “độc” làm nên cái “màu”, cái
“nhuỵ” của Xẩm, tôi hiểu người kép đàn kỳ tài này đã thực sự “nhập thần”
Xẩm, đã thành một kép Xẩm thượng thặng.
3
Xuân Hoạch nói với tôi rằng, đã từ rất lâu, sau những chuyến đi biểu
diễn ở nước ngoài, nhất là ở những nước được coi là tân tiến nhất thế giới,
ông đã ngộ ra một điều: các nghệ sĩ âm nhạc VN phải làm cho được âm nhạc
của đất nước mình, của dân tộc mình. Làm cho thật, cho hết mình, cho hay
và nhất là đừng làm giả. Âm nhạc truyền thống Việt Nam, nhất là âm nhạc
dân gian rất hay, rất đẹp, rất độc đáo, là một kho tàng vô tận. Nhưng tiếc
thay, nó đã bị mai một, chìm khuất, rơi rụng quá nhiều trong thời gian. Phải
ngược thời gian để tìm lại nó. Xuân Hoạch đã gặp ở “chuồng cu” của Thao
Giang những người bạn đồng chí hướng âm nhạc của mình. Không tài trợ,
không ngân sách, chạy tiền mướt mồ hôi, Xuân Hoạch, Văn Ty, Thanh
Ngoan vẫn cùng Thao Giang hoạt động thật say mê, hết mình. Hết Xẩm, lại
đến hát Ví, Trống quân, rồi hát Văn, Ca trù. Gần như tháng nào họ cũng tổ
chức các chuyến điền dã về những vùng quê. Tháng trước, Thao Giang khoe
với tôi các anh vừa tìm được những điệu Trống quân rất lạ ở Dạ Trạch
(Hưng Yên) và Xuân Hoạch, theo chỉ dẫn của các lão nghệ nhân, đã làm
được một cây đàn Trống quân. Tháng sau, Xuân Hoạch lại mời tôi đến xem
cây đàn bầu mới anh vừa chế tác từ những gốc tre già. Anh đã tìm được bí
quyết làm cho tiếng đàn bầu vang hơn và âm vực rộng hơn mà không cần
tăng âm điện tử…
NSND Xuân Hoạch và những người bạn của mình đang tiếp tục
ngược thời gian và những bí mật kỳ thú của âm nhạc dân gian dân tộc đang
dần mở ra trước họ…
9
10. Ghi từ đêm hát Xẩm và Trống quân
1.
Thế là “Đêm hát Xẩm và Trống quân mừng xuân Mậu Tý” do tạp chí
Văn hiến VN phối hợp với Trung tâm Phát triển Nghệ thuật Âm nhạc VN và
VTC tổ chức đã trở thành một sự kiện nghệ thuật khó quên trong những
ngày đón xuân Mậu Tý và chào mừng 78 năm ngày thành lập Đảng. Vào cái
đêm mưa lạnh nhất trong đợt rét đậm, rét hại lịch sử cuối Đinh Hợi đầu Mậu
Tý, nhiệt độ Hà Nội xuống duới 8oC, đêm 28/1/2008, các nghệ nhân Xẩm
và Trống quân nhiều thế hệ, từ cụ Nguyễn Văn Khôi (Hà Tây), NSƯT Hà
Thị Cầu (Ninh Bình), nghệ nhân Lê Minh Sen (Thanh Hóa), NSƯT Đỗ Tùng
(Hà Nội) đến các nghệ sĩ của Trung tâm Phát triển Nghệ thuật Âm nhạc VN:
Xuân Hoạch, Thanh Ngoan, Văn Ty, Thúy Ngần, Hạnh Nhân, Lê Tự Cường,
Mai Tuyết Hoa, Hoàng Quế, Quang Long, Khương Cường, Tuyết Mai... đã
cùng với Xẩm và Trống quân, hai thứ nghệ thuật của giếng nước, gốc đa,
của bến sông, bãi chợ, lần đầu tiên xuất hiện trên sân khấu sang trọng bậc
nhất đất nước. Bất chấp mưa rét cắt da cắt thịt, bất ngờ khán giả đã đến chật
khán phòng Nhà hát Lớn Hà Nội. Thật nhiều hoa, những tràng vỗ tay, những
nụ cười và cả những giọt nước mắt, trong không khí hân hoan, nồng ấm,
đồng điệu hiếm thấy ở một đêm nghệ thuật...
2.
Nhà thơ Ngô Thế Oanh từng nói với tôi rằng sự thiếu vắng nghệ thuật
dân gian là một thiệt thòi quá lớn của đời sống hiện đại. Từ TPHCM, khi
nhận được một CD “Xẩm Hà Nội” do nhạc sĩ Thao Giang gửi tặng, nhạc sĩ
Phan Huỳnh Điểu nói rằng ông rất xúc động khi được nghe lại “Sáng giăng
sáng cả vườn chè” ông từng nghe trên những chuyến tàu điện Bờ Hồ-Cầu
Giấy 60 năm trước. Điệu Xẩm này đã ăn sâu vào tiềm thức, trở thành một
phần trong nỗi nhớ Thủ đô của một người miền Nam tập kết như ông. Nhận
được giấy mời, nhà thơ Vũ Quần Phương và vợ đã thuê xe taxi từ Định
Công lên Nhà hát Lớn và ông cho biết rất có thể vợ chồng ông sẽ rất khó
khăn để gọi taxi trở về trong những ngày Hà Nội “cháy” taxi vì mưa rét này.
Tuy vậy vợ chồng ông đã không uổng công khi được nghe “Lỡ bước sang
ngang”, “Anh Khóa”, “Mục hạ vô nhân”, “Cho thiếp theo cùng”, “Lơ lửng
con cá vàng”... của các thi tài Nguyễn Bính, Á Nam Trần Tuấn Khải,
Nguyễn Khuyến, Tản Đà qua tiếng hát Xẩm cháy ruột cháy gan của những
Thanh Ngoan, Xuân Hoạch, Văn Ty. “Đã lâu rồi, tôi mới được xem một
đêm nhạc đầy ắp tình người như vậy”, nhà thơ Vũ Quần Phương nói. “Tổ
10
11. quốc thân yêu như trái tim thầm/Ở giữa lòng ta, ta nào có biết/Trong xa
cách bỗng à ơi giọng Việt/Du lòng ta qua nghìn dặm quê xuân”, nhà thơ
Chế Lan Viên từng viết thế. Trong “trái tim thầm” ấy có Xẩm và Trống
quân, những “à ơi giọng Việt” sâu lắng, thiêng liêng. Có lẽ vì vậy mà tất cả
những ai có mặt ở Nhà hát Lớn đêm 28/1/2008, cả những người đã từng yêu
mến và những người lần đầu tiên được nghe những “Cậy em, em ở lại
nhà/Vườn dâu em đốn, mẹ già em chăm”, “Chàng ơi cho thiếp theo
cùng/Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam”, “Lấy chồng thợ mộc sướng
sao/Mạt cưa dấm bếp, vỏ bào nấu cơm/Vỏ bào còn nỏ hơn rơm/Mạt cưa
dấm bếp còn thơm hơn trầm” hòa quyện trong tiếng bầu, nhị, nguyệt, trống
chầu, trống mảnh, trống cơm, thanh la, phách gỗ réo rắt, đều cảm thấy lâng
lâng hạnh phúc như được gặp lại một cái gì thật đẹp, thật trong trẻo, chân
thành, thật quen thuộc, thân thiết đã bị lãng quên, khuất lấp trong cuộc ồn ã
mưu sinh. Hai thứ nghệ thuật đơn sơ, mộc mạc, dân giã nhất của làng quê
Việt tưởng đã mãi mãi là của quá khứ bỗng trở lại rạo rực, tươi tắn lạ thường
và cho thấy chúng còn cần cho cuộc đời hôm nay biết bao nhiêu.
3.
Bí thư Thành uỷ Hà Nội Phạm Quang Nghị đến Nhà hát Lớn rất sớm
và ông vào ngay sân khấu để thăm nghệ nhân Hà Thị Cầu. Ông quen cụ Cầu
từ khi còn là Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam. Cụ Cầu cũng coi ông như người thân
và mừng lắm khi được gặp lại ông trên đất Thủ đô. Ông Nghị ngồi hàn
huyên cùng cụ Cầu ngay bên cánh gà sân khấu, nơi cụ vừa bỏm bẻm nhai
trầu vừa chờ tới giờ biểu diễn. Món quà xuân ông tặng cụ gồm những bài
báo về cụ được cắt ra từ các báo và một phong bì mừng tuổi. Ông nói: “Đây
là những bài báo các nhà báo viết về cụ, cháu đã cất giữ để dành tặng cụ.
Còn đây là quà mừng tuổi của cháu, mừng cụ thượng thọ, giữ gìn sức khỏe,
để còn hát mãi cho dân cho nước và truyền nghề cho con cháu”. Cụ Cầu rất
cảm động, cụ nói với mọi người khi ông Phạm Quang Nghị đã rời sân khấu:
“Cái ông Nghị này làm to nhưng thương dân, thương Xẩm lắm”. Nhạc sĩ
Thao Giang và NSƯT Thanh Ngoan còn nhắc mãi chuyện ông Phạm Quang
Nghị lúc là Bộ trưởng VHTT đã tới cổ vũ các nghệ sĩ của Trung tâm
PTNTANVN hát Xẩm khi trung tâm của họ vừa thành lập, gần như chưa
được ai biết đến. Ông khen vui: “Gánh Xẩm này được đấy” và tâm đắc nhắn
nhủ: “Xẩm và nghệ thuật dân gian quý lắm. Hồn nước, hồn dân tộc ở đó.
Các di sản này sẽ góp phần quan trọng xây dựng tâm hồn con người, nhân
cách con người VN hôm nay. Các nghệ sĩ Xẩm năm xưa không đơn thuần là
những người hát rong, không ít người trong số họ thực sự là những nghệ sĩ -
chiến sĩ của cách mạng”. Lời nhắn nhủ của ông Phạm Quang Nghị nhắc mọi
người nhớ tới chuyện nghệ nhân mù Nguyễn Văn Khôi một mình một cây
nhị đi hát binh vận đã từng làm rã ngũ nhiều trung đội địch thời kháng chiến
chống Pháp ở tỉnh Hà Đông cũ, chuyện 40 nghệ sĩ Xẩm đã cùng nhà thơ
11
12. Thanh Tịnh đã rất thành công trong chiến dịch vận động chống di cư ở vùng
Bùi Chu - Phát Diệm, chuyện nghệ nhân Lê Minh Sen với bài Xẩm “Con
đường cùng của đế quốc Mỹ” và tiếng nhị ngọt ngào, rộn rã của ông đã làm
nức lòng chiến sĩ nhân dân Nam Ngạn - Hàm Rồng những năm giặc Mỹ
đánh phá ác liệt chiếc cầu bắc qua sông Mã, chuyện cụ Hà Thị Cầu đã lên
tàu hỏa làm một cuộc “Nam chinh” trong những ngày đầu thống nhất đất
nước, đem những Xẩm chợ, Xẩm thập ân và bài ca “Theo Đảng trọn đời” do
chính cụ sáng tác đến tận Sài Gòn xa xôi, giãi bày tâm tình cùng bà con
phương Nam, hát mừng thời khắc nước non liền một dải.
4.
Đêm 28/1/2008, những nghệ sĩ - chiến sĩ Xẩm ấy đều có mặt trên sân
khấu Nhà hát Lớn. Cụ Nguyễn Văn Khôi đã 92 tuổi, cụ Hà Thị Cầu 87 tuổi,
cụ Lê Minh Sen trẻ hơn cũng đã 74 tuổi và kỳ lạ thay, với những nghệ nhân
dân gian thuộc lớp người “xưa nay hiếm” ấy, dường như không có tuổi già.
Khi chúng tôi vào Yên Nghĩa, thị xã Hà Đông tìm thăm cụ Khôi thì thấy
người nghệ nhân Xẩm kiêm cựu đại đội trưởng vệ quốc đoàn năm xưa dù 92
tuổi vẫn thật tráng kiện, giọng hát cụ vẫn rất trong rất đẹp. Hàng tuần cụ vẫn
dành thời gian dạy học trò từ các CLB Ca trù hát Xẩm Hà Tây đến Yên
Nghĩa tìm học cụ. Nghe chúng tôi mời về dự đêm Xẩm - Trống quân tại Nhà
hát Lớn Hà Nội, cụ vui lắm. “Về trung ương hả, cho mình hát với nhá”, cụ
hào hứng nói và điện ngay mời chị Mai, chủ nhiệm CLB âm nhạc dân gian
Trung tâm VHTT Hà Tây để chuẩn bị tiết mục cùng cụ. Tiếc rằng, vì mưa
rét, đường xa, đến Nhà hát Lớn cụ mệt nên chúng tôi không dám cho cụ biểu
diễn. Còn cụ Cầu, cụ Sen thì đã xuất hiện trước khán giả cùng các bài hát
lịch sử của mình. Với “Con đường cùng của đế quốc Mỹ”, cụ Lê Minh Sen
giúp chúng ta như được sống lại những ngày “tiếng hát át tiếng bom” trong
chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở miền Bắc. Dưới mưa bom bão đạn của
giặc, giữa bao nhiêu đau thương tang tóc, tiếng hát xẩm cất lên: “Đồng bào
ơi ta gìn giữ nước non nhà/Chúng còn bén mảng ắt là thua đau/Hãy liệu
hồn cuốn gói cút cho mau/Quan quan tướng tướng bảo nhau mà chuồn/Nếu
không nghe thì liệu cái thần hồn/Rừng sâu biển cả là mồ chôn chúng
mày/Con đường cùng của đế quốc Mỹ là đây”, những lời hát nôm na ấy quả
đã ghi lại sống động ý chí bất khuất và niềm tin sắt đá vào sự tất thắng của
cả dân tộc trong cuộc đọ sức tưởng chừng không cân sức với tên xâm lược
khổng lồ. Còn với “Theo Đảng trọn đời”, từ lời người mẹ dặn con, “thần
xẩm” Hà Thị Cầu cho biết dân ta từng ơn Đảng, tin Đảng sâu nặng sắt đá thế
nào: “Từ khi có Đảng dẫn đầu/Tự do, độc lập qua cầu gian nan/Mẹ con ta
thoát cảnh bần hàn/Tìm về quê cũ muôn vàn mến thương/Vững tâm theo
Đảng nghe con/Đạp bằng sóng gió sắt son lời nguyền”. Lời dặn con mộc
mạc trên của cụ Cầu qua tiếng hát Xẩm như “nhập đồng” theo chân cụ trên
khắp các nẻo đường đất nước suốt hơn mấy chục năm qua, chắc chắn là một
12
13. trong những bài hát ca ngợi Đảng chân thành nhất, xúc động nhất, có tác
động sâu rộng nhất mà ta từng biết.
5.
Dễ hiểu vì sao phần trao tặng giải thưởng Đào Tấn và quà xuân cho
các nghệ nhân lại là phần được người xem hoan nghênh nhất trong đêm
diễn. Cảm nhận trực tiếp được cái hay, cái đẹp của Xẩm và Trống quân, biết
được tài năng, tấm lòng, những cống hiến thầm lặng, vô giá của những nghệ
nhân dân gian, những người trọn đời vượt khó để cống hiến cho cộng đồng,
mọi người hiểu rằng tôn vinh và tưởng thưởng cho các nghệ nhân dân gian
bao nhiêu cũng chưa đủ. Trước đêm diễn hai ngày, ý tưởng của ban tổ chức
phát động một phong trào tôn vinh và chăm sóc thiết thực cho các nghệ nhân
dân gian đã nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt của các đồng nghiệp báo chí.
Cuộc họp báo mini và gấp gáp về đêm diễn vào cuối chiều thứ bảy do tạp
chí Văn hiến Việt Nam chủ trì đông ngoài dự đoán: hơn 60 nhà báo của hơn
50 cơ quan báo chí cả nước đã có mặt tham dự. Là những người am tường
sinh hoạt VHNT đất nước, các nhà báo tham dự đều chia sẻ với ban tổ chức
rằng: các nghệ nhân dân gian, những người góp phần quan trọng nhất sáng
tạo, gìn giữ, truyền bá và phát huy các báu vật nghệ thuật của dân tộc như
Quan họ, Cồng chiêng, Ca trù, Múa rối, Ca nhạc tài tử, Bài chòi, Xẩm,
Trống quân, hiện phần đông là những người nghèo khó nhất trong những
người nghèo khó. Họ xứng đáng được tôn vinh, quan tâm chăm sóc thiết
thực hơn nhiều những gì chúng ta đã dành cho họ. Ngay tại cuộc họp báo,
khi nghe NSƯT Thanh Ngoan kể về những ngày ốm đau thập tử nhất sinh
mà không có thuốc tốt điều trị của “mẹ” Cầu cuối năm 2007, về ước mơ giản
dị một đời phụ nữ của mẹ: có được một đôi bông tai đẹp, dù là giả, để đeo
những năm cuối đời, một nhà báo đã yêu cầu Thanh Ngoan đưa ngay ra tiệm
nữ trang sắm cho cụ Cầu đôi bông tai hai chỉ vàng, một nhà báo khác nhận
gửi tiền nuôi dưỡng cụ hàng tháng và giám đốc doanh nghiệp Thành Vinh
Nguyễn Đức Nam xin tặng cụ món quà xuân là 10 triệu đồng... Những người
có mặt ở Nhà hát Lớn đêm 28/1/2008 cũng bày tỏ sự ủng hộ ý tưởng của ban
tổ chức bằng cách đứng cả lên và vỗ tay vang dội khi Bí thư Thành uỷ Hà
Nôi Phạm Quang Nghị trao tặng giải thưởng mang tên danh nhân văn hóa
Đào Tấn cho cụ Hà Thị Cầu cùng Trung tâm PTNTANVN. Sự ủng hộ của
các doanh nghiệp và người hâm mộ còn được thể hiện bằng 20 phần quà
xuân trị giá hàng chục triệu đồng được ban tổ chức gửi tặng cho các nghệ
nhân dân gian của nghệ thuật Xẩm, Trống quân, Quan họ, Ca trù...
13
14. Sự phục sinh
thiên tài âm nhạc Văn Cao
Từ đây người biết quê người
Từ đây người biết thương người
Từ đây người biết yêu người…
Đến bây giờ thì “Mùa xuân đầu tiên” đã trở thành một trong những ca
khúc hay nhất, phổ biến rộng rãi nhất, được yêu thích nhất trong di sản âm
nhạc đồ sộ của Văn Cao, sánh ngang với những tuyệt phẩm bất hủ “Bến
xuân”, “Thiên thai”, “Trương Chi”, “Buồn tàn thu”, “Bắc Sơn”, “Tiến
quân ca”, “Ca ngợi Hồ Chủ tịch”, “Trường ca sông Lô”, “Làng tôi”,
“Ngày mùa”, “Tiến về Hà Nội”… Với khúc valse dịu nhẹ, thư khoan mà
sức lay động, thức tỉnh dường như không cùng trên, thiên tài âm nhạc Văn
Cao đã phục sinh cùng mùa xuân đại thắng của đất nước.
Họa sĩ Văn Thao, con trai nhạc sĩ Văn Cao, kể rằng từ sau khi sáng
tác “Tiến về Hà Nội”, Văn Cao đã thề là sẽ không bao giờ sáng tác ca khúc
nữa. Chuyện là cuối năm 1948, khi từ Việt Bắc chuyển về công tác tại Chi
hội Văn nghệ Liên khu 3 cùng với Nguyễn Đình Thi, Tô Ngọc Vân, Lương
Xuân Nhị, Tử Phác ở khu căn cứ Chợ Đại (Ứng Hòa, Hà Nội), Văn Cao
được hai đồng chí lãnh đạo Liên khu 3 và Thành ủy Hà Nội hồi ấy là Khuất
Duy Tiến và Lê Quang Đạo giao nhiệm vụ sáng tác một bài hát về Hà Nội.
Văn Cao kể lại, sau một cuộc họp chi bộ, trong bữa cơm, đồng chí Lê Quang
Đạo đã nắm chặt tay ông và nói: "Những ca khúc của cậu đã làm tôi rất xúc
động. Nhất là bài Làng tôi và bài Trường ca Sông Lô. Vậy nếu cậu yêu Hà
Nội nhớ Hà Nội thì hãy sáng tác cho Hà Nội một bài hát vừa hùng tráng vừa
trữ tình nhé!". Đầu xuân 1949, Văn Cao đã hoàn thành nhiệm vụ được giao,
bài hát “Tiến về Hà Nội” ra đời trong niềm vui khôn xiết của ông, bạn bè
văn nghệ và các đồng chí Khuất Duy Tiến, Lê Quang Đạo:
Trùng trùng quân đi như sóng
Lớp lớp đoàn quân tiến về...
Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về
Như đài hoa đón mừng nở năm cánh đào
Chảy dòng sương sớm long lanh
Chúng ta ươm lại hoa sắc hương say ngày xa
Ôi phố phường Hà Nội xưa yêu dấu
Những bông hoa ngày mai đón tương lai vào tay
Những xuân đời mỉm cười vui hát lên…
Bài hát ngay lập tức được đồng chí Khuất Duy Tiên cho in trên báo
Thủ đô, được lưu truyền trong cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Liên khu 3 và rất
14
15. được yêu thích. Tuy vậy, chỉ ít lâu sau, khi một đồng chí lãnh đạo cao cấp
được nghe “Tiến về Hà Nội” và nhận xét đây là bài hát “lạc quan tếu”, “lạc
quan tiểu tư sản”, Văn Cao liền bị đưa ra kiểm điểm, bị phê phán khắp nơi.
Từ đó, không ai dám hát “Tiến về Hà Nội” nữa…
Kể từ cú sốc ấy, và nhất là sau cái tai nạn Nhân văn nặng nề, suốt 26
năm, trong im lặng và cô đơn, Văn Cao vẫn làm thơ, vẽ, nhưng sáng tác âm
nhạc thì không.
Nhưng ngày 30-4-1975, cái “ngày vĩ đại” (Chế Lan Viên) của đất
nước đã đến. Bên ly rượu nhỏ trên căn gác nhỏ 108 Yết Kiêu, Hà Nội, Văn
Cao thầm lau những giọt nước mắt trên khuôn mặt gầy guộc, khắc khổ.
Những giai điệu chợt trào dâng trong ông. Cả năm 1975, Văn Cao bỗng hào
hứng trở về với âm nhạc. Ông nhận sáng tác nhạc cho phim “Chị Dậu” của
đạo diễn Phạm Văn Khoa rồi viết cả một bản giao hưởng cho phim “Anh bộ
đội Cụ Hồ” của xưởng phim Quân đội. Và trong một lần họp mặt cùng bạn
bè ở Chiếu Văn của nhà văn Sơn Tùng, Văn Cao nói rằng ông sẽ có một ca
khúc mừng “mùa xuân đầu tiên tổ quốc thống nhất sau 30 năm nhà nước
dân chủ nhân dân ra đời, nền cộng hòa được thiết lập”. Chắc chắn phải như
vậy rồi. Tác giả Quốc ca là người nhạc sĩ sinh ra để làm nên những khúc ca
của các chiến sĩ giải phóng dân tộc, để vĩnh cửu hóa những khoảng khắc,
những sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước trong âm nhạc với những “Bắc
Sơn”, “Đống Đa”, “Thăng Long hành khúc ca”, “Tiến quân ca”, “Chiến sĩ
Việt Nam”, “Ca ngợi Hồ Chủ tịch”, “Trường ca sông Lô”…Khúc khải hoàn
kháng chiến chống Pháp của âm nhạc cách mạng, bên cạnh “Chiến thắng
Điện Biên” của Đỗ Nhuận, “Quê tôi giải phóng” của Văn Chung, là “Tiến
về Hà Nội” của Văn Cao, bài hát “vừa hùng tráng vừa trữ tình” như mong
muốn của đồng chí Lê Quang Đạo, được viết từ 6 năm trước đó, dù bị phê
phán, bị cấm đoán, vẫn được chiến sĩ và nhân dân hát vang ngày giải phóng
thủ đô tháng 10/1954. Bây giờ, sau 30 năm xương máu hy sinh, đất nước
giành được trọn vẹn độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất, Văn Cao không thể
im lặng.
Những ngày đầu xuân 1976, Văn Cao ngồi vào đàn. Mùa xuân thanh
bình, thống nhất, cái mùa xuân hằng đau đáu mơ ước của mỗi con người
Việt Nam trong suốt 30 năm, có lúc tưởng chừng sẽ không bao giờ đến, cuối
cùng đã đến, thật tự nhiên nhưng quá đỗi bất ngờ, thật bình thường nhưng vô
cùng kỳ diệu, thật xưa cũ nhưng cũng thật mới mẻ, tinh khôi. Trong nhịp
valse dịu nhẹ, khoan nhặt của những “Làng tôi”, “Ngày mùa” hơn 20 năm
trước, Văn Cao bắt đầu ca khúc mới của mình bằng những hình ảnh giản dị
về cái “mùa xuân đầu tiên” tự nhiên – bất ngờ, bình thường – kỳ diệu, xưa
cũ - tinh khôi ấy:
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường mùa vui nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
15
16. Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
Một trưa nắng vui cho bao tâm hồn…
Trong mùa xuân đoàn tụ, xum họp này, ấn tượng nhất, xúc động nhất
chắc chắn là hình ảnh những đàn con đã về với mẹ sau ba mươi năm trận
mạc với những giọt nước mắt ướt đầm vai áo người chiến sĩ:
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Người mẹ nhìn đàn con nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh
Niềm vui phút giây như đang long lanh…
Được trực tiếp chứng kiến cái “mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu”
nay đã về, được ngây ngất giữa niềm vui bất tận đang long lanh tỏa sáng
trong mỗi ánh mắt, mỗi tâm hồn, niềm hạnh phúc nghẹn thắt trái tim người
nhạc sĩ chợt run rẩy bật thành lời:
Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên
Ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm...
Văn Cao ý thức đây chính là giờ phút có thể cảm nhận rõ hơn bao giờ
cái ý nghĩa lớn lao của những gì đã kết thúc và những gì sẽ bắt đầu. Chiến
tranh, chia cắt đã kết thúc, hòa bình, thống nhất đã bắt đầu, nhưng có cái gì
đó còn sâu xa hơn, thiết yếu hơn, nhân bản hơn, cần phải được bắt đầu. Và
đoạn cao trào vụt sáng, thiết tha, say đắm mà day dứt, trăn trở:
Từ đây người biết quê người
Từ đây người biết thương người
Từ đây người biết yêu người…
Nói đoạn cao trào này là mơ ước, khát vọng, niềm tin của Văn Cao
cũng đúng mà nói đó là nhắn nhủ, là cảnh báo của nhạc sĩ cũng không sai.
Chúng ta không khỏi giật mình khi nghe thấy ở đây như vang lên một điều
thật quan trọng: nếu từ đây, người không biết quê người, người không biết
thương người, người không biết yêu người, thì cái chiến thắng vĩ đại hôm
nay sẽ không thực sự có ý nghĩa.
“Mùa xuân đầu tiên” hoàn thành. Sau Tết 1976, ca khúc đã được
những người bạn thân thiết của Văn Cao truyền tay nhau. Mọi người vui
mừng hiểu rằng thiên tài âm nhạc của Văn Cao đã thực sự phục sinh, người
nhạc sĩ lớn lại có một tuyệt phẩm dành cho đất nước, nhân dân của mình.
Ngay trong năm 1976, “Mùa xuân đầu tiên” được giới thiệu trên báo Sài
Gòn giải phóng và sau đó được các bạn Liên xô chọn dịch sang tiếng Nga in
trong một tuyển tập ca khúc của Nhà Xuất bản Âm nhạc Matscơva và được
lưu truyền trong cộng đồng người Việt ở Liên xô và Đông Âu.
Tuy vậy, ở trong nước, khúc valse dịu nhẹ thủ thỉ tâm tình của Văn
Cao không được các đơn vị truyền thông đại chúng và các đơn vị nghệ thuật
biểu diễn để ý giữa một biển những tụng ca hào sảng, hùng tráng cùng về đề
tài trọng đại này. Đó là chưa kể khi được in trên Sài Gòn giải phóng, một số
quan chức văn hóa tư tưởng quá “nhạy cảm” đã lưu ý nhắc nhở tòa báo về
16
17. cái “chất nhân văn” trong tác phẩm của người từng bị khép vào nhóm Nhân
văn Giai phẩm 20 năm trước. Như số phận trắc trở, truân chuyên của thiên
tài sinh ra mình, phải 20 năm sau ngày ra đời (1996), sau cả khi Văn Cao
mất (1995), “Mùa xuân đầu tiên” mới đến được với đông đảo công chúng
trong nước khi các đài phát thanh truyền hình lớn dàn dựng, phát sóng.
Từ đó, “Mùa xuân đầu tiên” dần phát lộ toàn bộ chân giá trị của một
tuyệt phẩm, ngày càng được ưa thích rộng rãi và trở thành khúc nhạc lòng
của mỗi người Việt Nam mỗi độ xuân về và mỗi khi ngày 30-4 tới.
17
18. Nhạc sĩ của tình ca và quê hương
Hoàng Việt là một trong 5 nhạc sĩ đầu tiên của âm nhạc Việt Nam
(cùng với Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Đỗ Nhuận, Nguyễn Xuân Khoát) được
trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT năm 1996. Ông cũng là nhạc
sĩ đầu tiên được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân trong năm 2011 cùng với các nhà văn Chu Cẩm Phong,
Nguyễn Ngọc Tấn và nhà thơ Ca lê Hiến. Hoàng Việt xứng đáng với mọi sự
tôn vinh bởi những gì ông đã dâng hiến cho quê hương đất nước…
Từ “Tiếng còi trong sương đêm” và những ca khúc kháng chiến
bất hủ
Hoàng Việt tên thật là Lê Chí Trực, sinh ngày 29/10/1928 tại Chợ
Lớn. Quê cha anh ở thị xã Bà Rịa, quê mẹ ở Cái Bè, Tiền Giang. Từ những
năm học trung học ở Sài Gòn, lúc mới 16, 17 tuổi, Lê Chí Trực với bút danh
Lê Trực đã viết những ca khúc như “Chị Cả”, “Biệt đô thành” và “Tiếng
còi trong sương đêm”, trong đó ca khúc theo điệu tango “Tiếng còi trong
sương đêm” qua tiếng hát của ca sĩ Khánh Vân những năm 1944-1945 được
người dân Nam Bộ rất yêu thích:
Bến nước gió rét đò đưa khách sang
Lau xanh ven sông mờ rung bóng trăng
Đêm nay không gian chìm trong giá băng…
Mà đoàn hùng binh âm thầm xông lướt trong sương…
Khi ra đi có hứa thu nay về
Mà hôm nay lá thu đã rơi tràn
Trong giai đoạn tiền khởi nghĩa ở Nam Bộ, nếu các hành khúc của
Lưu Hữu Phước như “Lên đàng”, “Tiếng gọi thanh niên” là lời kêu gọi,
tiếng kèn thúc giục thanh niên đứng dậy cứu nước thì “Tiếng còi trong
sương đêm” là lời tâm sự và quyết tâm ra đi của một lớp thanh niên đô thành
được thức tỉnh bởi lời kêu gọi và tiếng kèn thúc giục ấy. Cho đến nay, sau
hơn 65 năm ra đời, ca khúc trữ tình thắm sâu tinh thần yêu nước này là một
trong những ca khúc tiền chiến vẫn còn được hát nhiều nhất cả trong nước
lẫn hải ngoại qua tiếng hát của các ca sĩ nhiều thế hệ như Thanh Thuý,
Khánh Ly, Thanh Tuyền, Ngọc Ánh, Vân Khánh, Đoan Trang, Tâm Đoan,
Trang Mỹ Dung, Hồng Cúc…
Năm 1947, Lê Chí Trực thực sự “biệt đô thành” ra bưng biền tham gia
kháng chiến và là thành viên trẻ nhất của đội ngũ văn nghệ kháng chiến Nam
Bộ, đầu tiên công tác tại chiến trường miền Tây “dọc ngang sông rạch” rồi
sau đó chuyển sang chiến trường miền Đông “gian lao mà anh dũng”. Trong
những tháng năm này, giữa tuổi 20, chàng thanh niên yêu nước Lê Chí Trực
đã trở thành nhạc sĩ – chiến sĩ Hoàng Việt, người phát ngôn kỳ tài bằng âm
18
19. nhạc ý chí chiến đấu, tinh thần lạc quan của quân dân Nam Bộ thành đồng tổ
quốc với các ca khúc “Lá xanh”, “Nhạc rừng”, “Mùa lúa chín “, “Lên
ngàn”… Nếu “Lá xanh” là bài hát tòng quân ra trận thật rộn ràng, tươi trẻ,
lôi cuốn thì “Nhạc rừng” như sự ngân vang tuyệt vời của thiên nhiên đất
nước trong tâm hồn người chiến sĩ vệ quốc còn “Lên ngàn” là khúc tráng ca
về sức sống bất khuất, sự hy sinh thầm lặng và niềm tin sắt đá vào chiến
thắng cuối cùng của người phụ nữ Nam Bộ giữa ngút ngàn đau thương, tang
tóc, gian khó của cuộc kháng chiến trưòng kỳ:
Nước ngập đồng xanh lúa chết
Gió mưa sập đổ mái nhà
Bao nhiêu gia đình tan hoang
Đau thương lệ rơi chứa chan
Em đi cắt lúa trên ngàn rẫy trên ngàn nắng chiều chang chang
Đường đi nước ngập mênh mang
bàn chân dẫm gai lòng không thở than…
Cùng với “Làng tôi”, “Tiến về Hà Nội”, “Trường ca sông Lô” của
Văn Cao, “Hành quân xa”, “Du kích sông Thao”, “Giải phòng Điện Biên”
của Đỗ Nhuận, “Người Hà Nội” của Nguyễn Đình Thi, “Tiếng chuông
nhà thờ” của Nguyễn Xuân Khoát, “Lỳ và Sáo”, “Quê tôi giải phóng” của
Văn Chung…ba ca khúc đậm chất lãng mạn cách mạng trên của Hoàng Việt
nằm trong số những ca khúc hay nhất của âm nhạc cách mạng Việt Nam thời
kháng chiến chống Pháp và là những ca khúc mãi đi cùng năm tháng như
chúng ta thưòng nói.
Đến khúc tình ca được cả dân tộc ca hát
Cùng với “Bài ca hy vọng” của Văn Ký, “Tình trong lá thiếp” của
Phan Huỳnh Điểu, “Trăng sáng đôi miền” của An Chung, “Câu hò bên bờ
Hiền Lương” của Hoàng Hiệp, “Giữ trọn tình quê” của Văn Cận… “Tình
ca” của Hoàng Việt ra đời trong những năm đầu đất nước bị chia cắt, là các
ca khúc mở ra dòng ca khúc đấu tranh thống nhất đất nước rất đặc biệt trong
lịch sử âm nhạc Việt Nam.
Đối với Hoàng Việt, “Tình ca” như là một bài hát rất riêng tư. Năm
1954, Hoàng Việt tập kết ra Bắc, để lại ở miền Nam người vợ trẻ đẹp và ba
đứa con thơ, đứa lớn nhất chưa đến 5 tuổi, giữa nanh vuốt kẻ thù. Từ đấy,
như bao ngưòi con miền Nam tập kết, ở thủ đô Hà Nội Hoàng Việt luôn
sống trong tình cảnh “Ban ngày bận công tác/Ban đêm nằm nhớ em/Ban
ngày ở miền Bắc/Ở miền Nam ban đêm” (Tế Hanh). Năm 1957, sau hơn hai
năm trời bặt vô âm tín, Hoàng Việt bất ngờ nhận được thư vợ từ miền Nam
gửi ra, lá thư đã phải đi vòng vèo vạn dặm qua tận nước Pháp xa xôi rồi mời
về được Hà Nội để đến tay ông. Hoàng Việt nhoà nước mắt khi đọc thư vợ.
Những xung động mãnh liệt, trào dâng từ những nhớ thương, tin tưởng, tự
hào với người vợ hiền đảm, từ nỗi đau đất nước chia cắt và gia đình ly tán,
Hoàng Việt chợt cảm nhận rõ ràng hơn bao giờ hết sức mạnh kỳ diệu của
tình yêu đôi lứa trong sự gắn bó thiếng liêng với tình yêu quê hương đất
19
20. nước. Một sức mạnh bất chấp không gian xa cách và thời gian dằng dặc,
thách thức mọi phong ba bão tố, vượt trên chiến tranh thù hận, xoá tan đau
khổ chia ly, để toả sáng như ánh sao đêm, thơm ngát như cánh hoa xuân và
bền vững muôn đời như sông nước Cửu Long bất diệt. Và bản “Tình ca” đã
ra đời như tiếng lòng của Hoàng Việt gửi về người vợ phưong xa với những
nhắn nhủ thuỷ chung son sắt:
Bến nước Cửu Long còn đó em ơi
Biển lúa nương dâu còn mãi muôn đời
Là còn duyên tình ta thắm trong tiếng ca không thể xoá nhoà...
Giữ lấy đức tin bền vững em ơi
Giữ lấy trái tim đòi sống yêu đời
Là một bài tình ca của đôi lứa ta dâng cả bao người
Ngay sau khi ra đời, “Tình ca” đã được ca sĩ Quốc Hương, người bạn
thân từ chiến trường Nam Bộ của Hoàng Việt, thu thanh, phát trên sóng Đài
Tiếng nói VN làm ngây ngất thính giả trong và ngoài nước. Tuy vây, thật
khó tin khi bản tình ca tha thiết, mạnh mẽ nhường ấy lại bị một số quan chức
văn hoá và cả một số văn nghệ sĩ phê phán là bi luỵ, yếu đuối và lập tức bị
lưu kho. Mãi đến hơn 10 năm sau, sau khi Hoàng Việt trở về miền Nam
chiến đấu, sáng tác và hy sinh, “Tình ca” mới được phổ biến trở lại. Từ đấy,
“bài tình ca của đôi lứa ta dâng cả bao người” của Hoàng Việt đã cất cánh
bay đến với các thế hệ người Việt ở mọi phương trời, trở thành khúc tình ca
được cả dân tộc ca hát trong hơn nửa thế kỷ qua, cả trong chiến tranh cũng
như giữa thời bình, cả trong đau khổ và hạnh phúc. Với sức chinh phục vô
song và khả năng thức tỉnh, nâng mọi tâm hồn vươn đến những điều cao
đẹp, thánh thiện, “Tình ca” xứng đáng được coi là biểu tượng của âm nhạc
Việt Nam trong thế kỷ 20 như có người đề nghị.
Và bản giao hưởng đầu tiên của âm nhạc Việt Nam
Năm 1958, Hoàng Việt được Đảng và nhà nước cử sang học tập tại
Nhạc viện Sofia, Bulgari. Đến cuối năm 1964 ông tốt nghiệp hạng ưu tú tại
đây với bản giao hưởng số 1 của ông, cũng là bản giao hưởng đầu tiên của
âm nhạc VN, bản giao hưởng mang tên “Quê hương”. Sau 7 năm tu nghiệp
tại một nhạc viện lớn của châu Âu, người nhạc sĩ tự học từ đô thành Sài Gòn
năm xưa đã nỗ lực vươn lên làm chủ được thể loại giao hưởng, thể loại âm
nhạc được coi là lớn nhất và khó nhất của âm nhạc hàn lâm thế giới, “một
trong những biểu hiện rực rỡ nhất của sự trưởng thành về tinh thần của loài
người” như nhận định của giới mỹ học châu Âu.
Giám đốc Nhạc viện Sofia từng tự hào đánh giá: “Bản giao hưởng
của Hoàng Việt không phải là một tác phẩm tốt nghiệp mà thật sự là một tác
phẩm lớn... Đó là một thành công rực rỡ của âm nhạc Việt Nam". GS Ca L ê
Thuần cũng cho rằng giao hưởng Quê hương của Hoàng Việt đã đánh dấu
một bước tiến quan trọng của nền âm nhạc Việt Nam dân tộc hiện đại, là giá
trị tinh thần sống mãi với đất nước.
20
21. Hoàng Việt tâm sự: "những ký ức quê hương" và "trách nhiệm của
một công dân" đã giúp ông viết nên bản giao hưởng với lời đề tặng "Kính
dâng Nam bộ trong cuộc chiến đấu anh dũng chống ngoại xâm"...
“Quê hương” là bản giao hưởng sử thi đồ sộ gồm 4 chương, với
những hình tượng âm nhạc phong phú khắc hoạ cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm của nhân dân Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng. Tác giả
đã sử dụng chất liệu từ những bài hát cách mạng và dân ca để làm các chủ
đề, được phát triển nhuần nhuyễn với những cảm xúc sáng tạo tinh tế và một
bút pháp khá điêu luyện. Chương I diễn tả không khí những ngày Cách
mạng tháng 8 và kháng chiến chống Pháp, được viết dưới hình thức sonate
với các chủ đề lấy từ các ca khúc “Hội nghị Diên Hồng”, “Lên đàng” của
Lưu Hữu Phước, “Nam bộ kháng chiến” của Tạ Thanh Sơn, “Chiến thắng
Điện Biên” của Đỗ Nhuận. Chương II mang tính chất trữ tình, miêu tả quê
hương từ chiến tranh chuyển sang những ngày hòa bình, được viết dưới hình
thức ronto với các chủ đề lấy từ “Lên ngàn”, “Mùa lúa chin” (Hoàng Việt),
“Kỵ binh Việt Nam” của Lê Yên, “Cây trúc xinh”, dân ca quan họ Bắc Ninh
và “Quê tôi giải phóng” của Văn Chung. Chương III là chương nhanh, kịch
tính, nhằm miêu tả cuộc kháng chiến chống Mỹ, được viết dưới hình thức
sonate, bao gồm các chủ đề phát triển từ bài “Giải phóng miền Nam” của
Lưu Hữu Phước, “Đợi chờ”, dân ca Tây Nguyên và “Lên đàng”. Trong
chương này, âm nhạc mang tính căng thẳng, kịch tính cao độ để thể hiện
cuộc chiến tranh một mất một còn, cuối cùng phần tái hiện mang âm hưởng
hai bài “Lên đàng” và “Giải phóng miền Nam” biểu hiện quyết tâm chiến
đấu và chiến thăng kẻ thù xâm lược. Chương IV mang âm hưởng vui tươi,
rộn rã, thể hiện niềm vui khi đất nước giành được độc lập tự do. Chương này
được xây dựng với hình thức 3 đoạn phức cùng phần coda trang trọng,
hoành tráng, có sự tham gia của dàn hợp xướng thể hiện ước mơ được sống
trong hạnh phúc thanh bình của dân tộc.
Trong năm 1964, giao hưởng “Quê hưong” đã được biểu diễn ba lần
tại thủ đô Bugari: lần thứ nhất trong dịp Hoàng Việt thi tốt nghiệp với Dàn
nhạc Nhạc viện Sofia và hai lần nữa để phục vụ công chúng với Dàn nhạc
Giao hưởng Bugari. Dàn nhạc Giao hưởng Bungari cũng đã thu thanh giao
hưởng “Quê hương” để phát trên đài phát thanh Quốc gia. Tại Việt Nam,
khi Hoàng Việt trở về Hà Nội, bản giao hưởng này cũng đã được Nhà hát
giao hưởng hợp xướng nhạc vũ kịch VN và hai danh ca Quốc Hương, Vũ
Dậu dàn dựng, công diễn cùng bản giao hưởng số 5 của nhạc sĩ vĩ đại người
Nga P.I.Tchaikovsky vào ba đêm 26, 27, 28 tháng 3 năm 1965 tại Nhà hát
Lớn Hà Nội dưới đũa chỉ huy của nhạc trưởng, nghệ sĩ công huân Triều Tiên
Ly Hiơng Un. Đó là ba đêm nghệ thuật không thể nào quên không chỉ với
Hoàng Việt mà cả với người hâm mộ và giới âm nhạc hàn lâm Việt Nam…
Ông tiên tóc trắng ở khu nhà 87B Lý Thường Kiệt, Hà Nội
21
22. Tôi nhớ mãi ấn tượng về Hoàng Việt khi ông đến sống tại khu nhà
87B LýThượng Kiệt, Hà Nội. Đây là khu nhà dành cho các văn nghệ sĩ miền
Nam tập kết gồm nhà thơ Bảo Định Giang, các nhà văn Khương Minh Ngọc,
Nguyễn Quang Sáng, Xuân Vũ, hoạ sĩ Nguyễn Tấn Hưng, nghệ sĩ điện ảnh
Nhị Hà và ba tôi, nhà nghiên cứu Mịch Quang. Đầu năm 1965, khi Hoàng
Việt từ Bungari về nước, nhà thơ Bảo Định Giang, Phó Tổng thư ký phụ
trách văn nghệ miền Nam của Liên hiệp các hội VHNTVN, đã cùng gia đình
dọn đến trong cơ quan 51 Trần Hưng Đạo, nhưòng căn phòng lớn của gia
đình tạị đây cho nhạc sĩ đồng hương Tiền Giang tài năng đến ở để có điều
kiện sáng tác. Khi ấy, tôi là một cậu học sinh lớp 9 mê nhạc cổ điển, rất tự
hào khi biết người nhạc sĩ nổi tiếng của những “Lên ngàn”, “Nhạc rừng” và
giao hưởng “Quê hương” đến ở trong khu nhà mình. Hàng ngày, Hoàng
Việt hầu như chỉ ở trong căn phòng của ông và tôi luôn được nghe tiếng đàn
piano vọng ra từ đấy. Chỉ thỉnh thoảng tôi mới thoáng thấy bóng ông ra
ngoài với vóc dáng mình hạc xương mai và mái tóc bạc trắng. Với tôi,
Hoàng Việt gần thật đấy mà cứ xa xôi huyền hoặc như là một ông tiên trong
cổ tích. Tôi không hề biết ông tiên tóc bạc trắng này chỉ mới 37 tuổi. Ít lâu
sau, nhạc sĩ Văn Cận sau khi tu nghiệp ở Trung Quốc về, đã đến ở với ba
con tôi và tôi đã đôi lần theo nhạc sĩ Văn Cận vào chơi với nhạc sĩ Hoàng
Việt trong căn phòng của ông. Được đối diện thật gần với Hoàng Việt, tôi
thấy ông không già như tôi tưởng, ông có đôi mắt thật sang và nụ cười thật
hiền từ. Nghe Hoàng Việt và Văn Cận trò chuyện, tôi biết hai nhạc sĩ của
“Tình ca” và “Giữ trọn tình quê” khi tập kết đều để lại vợ con ở miền Nam,
nay đều có nguyện vọng trở về Nam chiến đấu, sáng tác mong có cơ hội sum
họp gia đình và nguyện vọng đó đã được cấp trên chấp thuận. Bên cây đàn
piano, Hoàng Việt và Văn Cận đã đàn và hát cho nhau nghe các sáng tác
mới chuẩn bị cho chuyến hồi hương thiêng liêng, Hoàng Việt với bài “Giết
giặc Mỹ cứu nước” còn Văn Cận có bài “Mẹ ơi! Con sẽ trở về”. Thời gian
này, chị tôi sau khi tốt nghiệp kỹ sư nông nghiệp đã xung phong về miền
Nam được hơn một năm. Trong thư chị gửi ra cho gia đình, tôi được biết chị
tôi đã phải mất hơn hai tháng trời vượt qua hàng ngàn cây số đèo dốc
Trường Sơn mới về được đến quê hương. Nhìn Hoàng Việt và Văn Cận, tôi
thầm nghĩ không biết hai ông sẽ làm thế nào để vượt Trưòng Sơn, khi Văn
Cận thì cận thị rất nặng còn Hoàng Việt thì quá mảnh khảnh, gầy guộc…Sau
tết 1966, tôi không còn được gặp Hoàng Việt và Văn Cận tại khu nhà 87B
Lý Thường Kiệt Hà Nội nữa, hai ông đều đã lên đường…
Cửu Long – Bản giao hưởng dang dở
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, trưởng đoàn văn nghệ sĩ đi chiến
trường Nam Bộ đầu năm 1966 kể rằng ông và các văn nghệ sĩ trong đoàn
không ai nghĩ rằng Hoàng Việt có khả năng vượt nổi Trường Sơn bởi thấy
ông quá ốm yếu. Trên đường Trường Sơn, Nguyễn Quang Sáng luôn bố trí
Hoàng Việt đi đầu khi hành quân nhưng bao giờ ông cũng là người cuối
22
23. cùng đến trạm, rất lâu sau khi mọi người đã đến đã nấu cơm và ăn cơm
xong, khi cả đoàn đã lên võng ngủ Hoàng Việt mới lủi thủi một mình lặng lẽ
nhóm bếp nấu cơm. Có lần, Hoàng Việt bị lật cổ chân, chân sưng to, mưng
mủ, đoàn muốn gửi ông lại trạm để dưỡng bệnh nhưng ông vẫn cắn răng lết
theo đoàn, kể cả khi phải mang thêm hơn 10 cân gạo ăn đường trong cái ba
lô đã nặng gần bằng trọng lượng 42 kg người ông. Cứ thế, sau hơn ba tháng,
Hoàng Việt vẫn theo kịp đoàn để về đến quê hương trong sự kinh ngạc của
mọi người.
Toại nguyện về với quê hương, bất chấp đói khổ, ác liệt, ngay trên
chiến khu, song song với việc đào hầm, cất nhà, tải gạo, với bút danh mới Lê
Quỳnh, Hoàng Việt đã say sưa sáng tác vói năng xuất chưa từng có. Từ cuối
năm 1966 đến giữa năm 1967, ông đã hoàn thành 12 ca khúc và vở nhạc
kịch “Bông sen” kể chuyện anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Lịch với 102 trang
phần đệm piano để gửi ra miền Bắc. Ông còn viết nhạc cho hai điệu múa của
Văn công R, rồi chuyển “Bông sen” từ thể loại lớn opera thành một nhạc
cảnh nhỏ để Văn công R có thể biểu diễn phục vụ tại chiến trường. Trong lá
thư viết cho nhạc sĩ Đỗ Nhuận tháng 5/1967, Hoàng Việt nói với Tổng thư
ký Hội Nhạc sĩ VN rằng dù rất tích cực sáng tác phục vụ kip thời nhưng ông
vẫn không quên dồn tâm sức sáng tác những tác phẩm lớn góp phần đánh
dấu giai đoạn tiến triển mới của âm nhạc cách mạng miền Nam. Hoàng Việt
còn bày tỏ với nhạc sĩ Đỗ Nhuận khát vọng đưa âm nhạc cách mạng thâm
nhập sâu vào đời sống tinh thần của người dân miền Nam để thay thế loại
tân cổ tạp nham cũng như thứ dân ca rhythm nhạc dance ỉ eo than khóc mị
dân của Phạm Duy hoặc loại nhạc điện tử làm ô uê thích giác người nghe
của đám nhạc trẻ sa đoạ Sài Gòn…
Sau niềm hạnh phúc to lớn được đón người vợ yêu thương và ba đứa
con từ Sài Gòn ra chiến khu sum họp gia đình sau hơn 13 năm xa cách trong
dịp têt 1967, Hoàng Việt lại bắt đầu một thử thách mới. Ông xin tổ chức cho
rời chiến khu về với vùng đất ven bờ Cửu Long, vùng chiến sự ác liệt, để lấy
cảm hứng thực hiện dự án sáng tác lớn ông hằng ôm ấp: bản giao hưởng số 2
của ông, giao hưởng mang tên “Cửu Long” . Theo Hoàng Việt, đây sẽ là
giao hưởng có 3 chương: Chiến thắng, hạnh phúc và xây dựng. Và ông đã
lên đường về Cao Lãnh, Tiền Giang men theo đường số 4 và bờ sông Cửu
Long để tìm hiểu thêm những điều Hoàng Việt gọi là “những khía cạnh đặc
biệt” nơi dòng sông vĩ đại của quê hương. Cuối năm 1967, sau những ngày
tháng băng đồng, qua lộ, chịu bom pháo, Hoàng Việt đã đặt chân về đến quê
mẹ Tiền Giang, đã đến rất gần với sóng nước Cửu Long. Nhưng ngay trên
bờ kênh Ả Rặt, làng Mỹ Thiện, huyện Cái Bè, Tiền Giang, trong buổi sáng
cuối cùng năm 1967, sáng 31 tháng 12, Hoàng Việt và những người cùng đi
bất ngờ bị máy bay Mỹ tập kích. Hoàng Việt bị trúng đạn rốc két của kẻ thù.
Ông hy sinh, thân xác hoà tan trong con kênh chảy ra dòng sông Cửu Long.
23
24. Khi ấy, Hoàng Việt mới vừa qua tuổi 39. Và bản giao hương số 2 của đời
ông, giao hưởng “Cửu Long”, mãi là bản giao hưởng dang dở…
24
25. Hoàng Lê
và điệu hát Vọng Kim lang
Cùng với Nghệ sĩ Nhân dân Lệ Thi, các đạo diễn Nguyễn Văn Khánh,
Võ Bài, các tác giả Thế Lữ, Thanh Nha, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Tường
Nhẫn, nhạc sĩ Hoàng Lê là một trong những bậc tiền bối đã góp phần dựng
nên bộ môn sân khấu ca kịch Bài chòi Liên khu Năm trên miền Bắc xã hội
chủ nghĩa đầu những năm 1960. Tôi may mắn được nhập môn bộ môn sân
khấu này khi trở thành biên kịch của Đoàn Văn công Giải phóng Trung
Trung bộ thời chống Mỹ…
Đó là vào khoảng giữa năm 1971, tại khu Khu An dưỡng cán bộ chiến
trường miền Nam K15 thị xã Hà Đông. Nhạc sĩ Hoàng Lê vừa từ chiến
trường Khu Năm ra Bắc. Sau hơn 5 năm phục vụ tại chiến trường Khu Năm
hết sức khó khăn gian khổ, sức khoẻ của Hoàng lê đã giảm sút rất nặng. Ông
lại đang mang một nỗi đau lớn: vợ ông, nghệ sĩ Bài chòi Hồng Ân, đã bị Mỹ
- Nguỵ phục kích bắt tại chiến trường Bình Định cùng với các nghệ sĩ Võ Sĩ
Thừa, Kim Hùng, Hải Liên và các đồng đội trong Đoàn Văn công Giải
phóng Khu Năm khi đang phục vụ tại đây, đày ra giam tại đảo Phú Quốc.
Nhưng sức khoẻ giảm sút cùng với nỗi đau lớn ấy đã không thể quật ngã
được nhạc sĩ. Người khô gầy, đen nhẻm, hàng ngày Hoàng Lê vẫn ôm cây
đàn nguyệt dạy chúng tôi và lứa nhạc công, diễn viên của đội ca kịch Bài
chòi Đoàn Văn công Giải phóng Trung Trung bộ, hoặc vừa tốt nghiệp Nhạc
viện Hà Nội hoặc vừa tuyển được ở Thanh Hoá, Nghệ An, từng câu Bài
chòi, dân ca Liên khu Năm, những điệu xuân nữ, cổ bản, xàng xê, hò quảng,
lý vọng phu, lý thương nhau, hò giã vôi…
Nhạc sĩ Hoàng Lê quê xã Hoài Hương, huyện Hoài Nhơn, Bình Định.
Tham gia cách mạng từ tháng 8 – 1945. Với vốn âm nhạc tự học, nhạc sĩ
Hoàng Lê đã bắt đầu cuộc đời hoạt động văn hoá văn nghệ phục vụ cách
mạng trong nhiệm vụ phụ trách thiếu nhi rồi các đội tuyên truyền văn nghệ
của huyện, tỉnh bằng tài sáng tác và sử dụng các loại nhạc dân tộc như kìm,
sến, hồ, nhị… Trong kháng chiến chống Pháp, ông đã sáng tác một số ca
khúc rất được ưa thích tại vùng tự do Bình Định như Vui chiến đấu, Mưa
rào…
Tập kết ra Bắc, nhạc sĩ Hoàng Lê là nhạc công rồi phụ trách dàn nhạc
của Đoàn Dân ca kịch Liên khu Năm được thành lập trên đất Bắc. Tại đơn
vị nghệ thuật này, ông trở thành một nhạc sĩ cổ nhạc nổi tiếng, góp phần
quan trọng trong việc xây dựng hệ thống làn điệu bài bản cho bộ môn sân
khấu Dân ca kịch Liên khu Năm hình thành từ điệu hô Bài chòi và hệ thống
các điệu lý, hò, hô khác của dân ca Trung Trung bộ qua việc tham gia xây
25
26. dựng hàng loạt vở diễn nổi tiếng, được giới sân khấu và khán giả thủ đô Hà
Nội và miền Bắc hồi ấy đánh giá rất cao như Thoại Khanh – Châu Tuấn,
Nghìn thu vọng mãi, Tiếng sấm Tây Nguyên, Đội kịch chim chèo bẻo...
Năm 1965, sau 10 năm công tác trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nhạc
sĩ Hoàng Lê tình nguyện vượt Trường Sơn trở về quê hương chiến đấu. Ông
công tác ở Tiểu ban Văn nghệ, Ban Tuyên huấn Khu uỷ Năm, phụ trách việc
huấn luyện cho các đơn vị nghệ thuật của Khu uỷ và các địa phương trong
khu. Cuối năm 1970, nhạc sĩ trở ra Bắc với nhiệm vụ tuyển và đào tạo diễn
viên, nhạc công để thành lập Đoàn Dân ca kịch Giải phóng khu Năm để đưa
trở về chiến trường phục vụ.
Trong vòng hơn 2 năm 1971 – 1972, được sự hỗ trợ nhiệt tình của
Ban B Bộ Văn hoá, Ban Thống nhất Trung ương và Đoàn Dân ca kịch Liên
khu Năm, ông cùng những người thầy khác như các nghệ sĩ Lệ Thi, Nguyễn
Kiểm, Trần Chức đã hoàn thành nhiệm vụ trên: Đoàn Dân ca kịch Giải
phóng khu Năm đã hình thành với lớp diễn viên trẻ đầy triển vọng và xây
dựng được một chương trình biểu diễn như Thoại Khanh – Châu Tuấn, Tấm
vóc đại hồng, Đội kịch chim chèo bẻo… Cuối năm 1973, Hoàng Lê một lần
nữa sát cánh cùng đơn vị nghệ thuật non trẻ của khu Năm vừa được thành
lập trên đất Bắc vượt Trường Sơn, theo đường mòn Hồ Chí Minh huyền
thoại trở về, kịp phục vụ nhân dân và chiến sĩ quê hương trong chiến dịch
Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975.
Sau ngày giải phóng, nhạc sĩ Hoàng Lê về công tác tại quê hương
Nghĩa Bình. Ông lại tập trung thời gian và tâm sức vào các công việc ông
yêu thích: nghiên cứu dân ca Liên khu Năm, sáng tác nhạc và đào tạo lực
lượng diễn viên, nhạc công cho bộ môn sân khấu Dân ca kịch. Ông vừa
chuyển thể, chỉnh biên và sáng tác nhạc cho các vở Đoàn tụ, Lâm Sanh –
Xuân Nương, Một mạng người, Người năm ấy, Sóng ngầm vùng biển lặng,
Một sự trả giá, Chuyện bên dòng sông Thu… trên sân khấu các Đoàn Dân ca
kịch Bình Định, Khánh Hoà, Quảng Nam. Đáng chú ý là, trong khoảng thời
gian này, ông đã hoàn thành một công trình nghiên cứu đầy đặn công phu về
âm nhạc của bộ môn sân khấu mà ông gắn bó trọn đời, đó là bộ sách Âm
nhạc dân ca Bài chòi do Sở Văn hoá Thông tin Nghĩa Bình xuất bản năm
1978. Bộ sách này đã trở thành sách gối đầu giường của những người hoạt
động ca kịch Bài chòi 30 năm qua. Với tư cách là Chủ nhiệm bộ môn Dân ca
Bài chòi của Trường Văn hoá Nghệ thuật Nghĩa Bình, nhạc sĩ Hoàng Lê đã
hết lòng đào tạo mấy thế hệ diễn viên, đặc biệt là lớp nghệ sĩ chủ chốt hiện
nay của Đoàn Dân ca kịch Bình Định như các nghệ sĩ Trần Tới, Hoài Huệ,
Hồ Thu, Kim Cúc, Tấn Hào, Mộng Hoàng… Ông mất tại thành phố Quy
Nhơn năm 1986, khi nhiều dự định sáng tạo, nghiên cứu vẫn đang dang dở...
Nhắc đến nhạc sĩ Hoàng Lê, không thể không nói đến những làn điệu
dân ca mới do ông sáng tác đã đi vào kho tàng làn điệu của Ca kịch Bài chòi
như Lía phôn, Chèo bẻo, Gió đưa trăng, Trách ai đổi bạn, Đất Hồ lòng
Hán… và đặc biệt là điệu hát Vọng Kim Lang. Đây là điệu hát do ông sáng
26
27. tác khi làm nhạc cho vở Nghìn thu vọng mãi của nhà thơ Lưu Trọng Lư viết
về cuộc đời truân chuyên của nàng Kiều. Theo yêu cầu của đạo diễn, cần có
một sáng tác mới phù hợp với hoàn cảnh và tâm trạng trong cảnh chia ly
Kiều – Kim Trọng đã được đại thi hào Nguyễn Du diễn tả bằng đoạn thơ
tuyệt tác “Người lên ngựa, kẻ chia bào/Rừng phong thu đã nhuốm màu
quan san/Dặm hồng bụi cuốn chinh an/ Trông người đã khuất mấy ngàn
dâu xanh/Người về chiếc bóng năm canh/Kẻ đi muôn dặm một mình xa
xôi/Vầng trăng ai xẻ làm đôi/Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”. Tất cả
những biến thái tinh tế, diệu vợi trong tâm trạng nàng Kiều buổi chia ly ấy
đã được nhạc sỹ Hoàng Lê đưa vào thật tài tình trong điệu hát mang tên
Vọng Kim Lang:
Chốn Liêu Dương cách trở muôn trùng
Trông theo chàng từ vó ngựa khuất quan san
Thiếp trông theo chàng từ vó ngựa khuất quan san…
Mộng vàng đêm trường ai về thấp thoáng, tỉnh ra lại tủi suốt canh
chầy
Thấy ai trong mộng mà nhớ buổi chia tay
Dáng ai lên đường kìa vó ngựa bước đâu đây…
Người đi ta đếm xuân sang
Xuân sang rồi lại sang xuân
Mà sao nhìn về Liêu Dương bóng chim vẫn biệt tăm…
Điệu hát này lúc đầu chỉ dành cho một nhân vật, tạo nên một hoàn
cảnh cụ thể ở một vở diễn, là một điệu hát mà giới chuyên môn gọi là
“chuyên dùng”, không ngờ đã trở thành làn điệu “đa dùng” trên sân khấu ca
kịch Bài chòi, được sử dụng cho nhiều nhân vật, trong nhiều vở diễn suốt
gần nửa thế kỷ qua. Hơn thế, không chỉ được dùng trên sân khấu ca kịch Bài
chòi, Vọng Kim Lang đã được đưa vào sân khấu cải lương và trở thành một
làn điệu cải lương rất được yêu thích. Vọng Kim Lang cũng đã trở thành một
làn điệu “dân ca mới” rất phổ biến trong nhân dân các địa phương miền
Nam.
Vọng Kim Lang đã rất nổi tiếng trong đời sống nghệ thuật, đã nhập
vào kho tàng dân ca, nhạc cổ, trở thành tài san chung của nhân dân miền
Nam, nhân dân Việt Nam. Không nhiều người biết nó được sinh ra từ một
vở ca kịch Bài chòi và do nhạc sĩ Hoàng Lê sáng tạo nên.
Người sáng tạo điệu hát Vọng Kim lang bất hủ, nhạc sĩ Hoàng Lê, đã
hóa thân thành một phần của nhân dân, của âm nhạc cổ truyền Việt Nam.
27
28. Dù có đi bốn phương trời
Trong gần 400 ca khúc của người nhạc sĩ tài danh Hoàng Hiệp, chỉ có
một tác phẩm về Hà Nội là ca khúc “Nhớ về Hà Nội”. Tuy vậy, đây lại là
một trong những bài hát hay nhất, được yêu thích nhất trong hàng trăm bài
hát hay về thủ đô đất nước của các nhạc sĩ Việt Nam. Trong các cuộc bầu
chọn trực tuyến bài hát hay về Hà Nội do một số báo điện tử tổ chức nhân
Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, “Nhớ về Hà Nội” của
Hoàng Hiệp luôn dẫn đầu cùng với “Người Hà Nội” của Nguyễn Đình Thi,
“Em ơi Hà Nội phố” của Phú Quang, “Hà Nội, niềm tin và hy vọng” của
Phan Nhân, “Hướng về Hà Nội” của Hoàng Dương…
Hoàng Hiệp tên thật là Lưu Trần Nghiệp, còn có bút danh là Lưu
Nguyễn, sinh ngày 1/10/1931 ở cù lao Giềng, Mỹ Hiệp, Chợ Mới, An
Giang. Ông tham gia cách mạng vào năm 1945, năm ông mới 14 tuổi, trong
đoàn Tuyên truyền lưu động Long Xuyên. Năm 1955, Hoàng Hiệp tập kết ra
Bắc, vào học Trường Âm nhạc Việt Nam (nay là Học viên Âm nhạc quốc
gia) và bắt đầu sự nghiệp sáng tác với ca khúc “Câu hò bên bờ Hiền
Lương” (1957). Cho đến nay, sau hơn nửa thế kỷ lao động sáng tạo, Hoàng
Hiệp đã có một sự nghiệp âm nhạc đồ sộ với gần 400 ca khúc, tác giả âm
nhạc của hàng chục tác phẩm sân khấu và hàng chục phim truyện, phim tài
liệu. Năm 2000, ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học
nghệ thuật.
Có thể nói, Hoàng Hiệp là một trong những nhạc sĩ Việt Nam viết ca
khúc nhiều nhất và có nhiều nhất những ca khúc đã khắc sâu vào ký ức của
các thế hệ người Việt trong nửa sau thế kỷ 20 như “Câu hò bên bờ Hiền
Lương”, “Trường Sơn đông, Trường Sơn tây”, “Ngọn đèn đứng gác”, “Cô
gái vót chông”, “Đất quê ta mênh mông”, “Lá đỏ”, “Viếng lăng Bác”,
“Em vẫn đợi anh về”, “Chút thơ tình của người lính biển”, “Đồng đội”,
“Mùa chim én bay”, “Con đường có lá me bay”, “Nơi anh gặp em”, “Nhớ
về Hà Nội”, “Trở về dòng sông tuổi thơ”…
Hoàng Hiệp luôn tự hào là một nhạc sĩ của cách mạng. Ông thường
nói: kháng chiến, cách mạng đã đưa ông đến với âm nhạc và ông sáng tác
nhạc là để phụng sự cho cách mạng, cho kháng chiến. Chính vì thế, Hoàng
Hiệp đã chọn tên ca khúc “Lá đỏ” (phổ thơ Nguyễn Đình Thi) làm tên cho
chương trình “Con đường âm nhạc” của ông trên VTV3 cuối năm 2007.
Nhưng một chương trình khác về sự nghiệp âm nhạc của ông được trực tiếp
trên sóng VTC vào cuối năm 2009, ông lại rất tâm đắc với cái tên “Nơi gặp
gỡ của tình yêu” .
28
29. Bởi Hoàng Hiệp cũng luôn tự hào là một nhạc sĩ của tình yêu. Cho
đến nay, ông dường như chưa một lần sáng tác hành khúc (chỉ có một lần
ông viết lời cho hành khúc “Bài hát giải phóng quân” của nhạc sĩ Lưu Hữu
Phước). Hoàng Hiệp muốn đem đến cho sự nghiệp cách mạng những tình
khúc, cái mà theo ông cách mạng đang thiếu và đang cần ở âm nhạc. Còn
nhớ, cuối những năm 1960, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ vào hồi căng
thăng nhất, bản tình khúc “Trường Sơn đông, Trường Sơn tây” phổ thơ
Phạm Tiến Duật ra đời và rất được ưa chuộng trong thanh niên Thủ đô và
miền Bắc. Chỉ vì trổ nhạc cho đoạn thơ “Anh lên xe, trời đổ cơn mưa/cái gạt
nước xua đi nỗi nhớ/em xuống núi, nắng về rực rỡ/cái nhành cây gạt mối
riêng tư” mà bản nhạc này bị một số người phê phán là mang nhiều yếu tố
nhạc “vàng” và đòi cấm phổ biến, nhưng“Trường Sơn Đông Trường Sơn
Tây” vẫn sống mạnh mẽ trong trái tim những đoàn quân ra trận cho đến
ngày đại thắng và sau này được mặc nhiên coi là một trong những tình khúc
hay nhất thời chống Mỹ.
Tình khúc của Hoàng Hiệp là những tình ca của lứa đôi trong sự
nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc, trong sự gắn bó tha thiết với quê hương
đất nước, với cộng đồng xã hội.
“Nhớ về Hà Nội” không là một tụng ca thông thường, nó thực sự là
một tình khúc. Bài hát được viết vào năm 1984, sau gần 9 năm Hoàng Hiệp
xa Hà Nội trở về sinh sống tại TPHCM. Sau một buổi trò chuyện với người
vợ, vốn là một nghệ sĩ sân khấu Hà Nội, ký ức về 20 năm sống giữa thủ đô
chợt bất ngờ bừng dậy quay quắt trong lòng người nhạc sĩ phương Nam.
Ông nhớ cái trường nhạc mái tranh vách đất trên đường đê La Thành, nơi
ông bắt đầu sự nghiệp âm nhạc, nhớ đường Nguyễn Du rợp bóng cổ thụ, nơi
có ngôi nhà của gia đình vợ, nơi bắt đầu những đêm hẹn hò giữa chàng nhạc
sĩ trẻ miền Nam tập kết và cô thiếu nữ Hà Nội xinh đẹp, hiền thục trong mùi
hoa sữa nồng nàn, nhớ phố Khâm Thiên tang thương sau trận bom B52 mùa
đông năm 1972…Hoàng Hiệp hiểu rằng một ca khúc về thủ đô dất nước,
quê hương của vợ, người tình duy nhất của đời ông và cũng là quê hương
thứ hai của ông, đang đến với ông. Ngay đêm ấy, Hoàng Hiệp ngồi vào đàn.
Người nhạc sĩ được coi là “vua phổ thơ” của giới nhạc Việt không cần
những vần thơ của ai đó gợi thức hình tượng âm nhạc. Từ sâu thẳm ký ức,
lời thơ hiện ra thật tự nhiên và cũng thật tự nhiên, giai điệu vang ngân. Âm
hình chủ đạo, đoạn ca từ mở đầu và kết thúc là lời bày tỏ của những người
đã đi xa:
Dù có đi bốn phương trời lòng vẫn nhớ về Hà Nội
Hà Nội của ta, Thủ đô yêu dấu
Một thời đạn bom, một thời hòa bình
Tiếp đó là nỗi nhớ nhung rất chung mà rất riêng về những ngày sống, yêu
đương, dựng xây và chiến đấu giữa thủ đô văn hiến và anh hùng:
Nhớ phố thâm nghiêm rợp bóng cây
Tiếng ve ru những trưa hè
29
30. Và nhớ những công viên vừa mới xây
Bước chân em chưa mòn lối
Ôi nhớ Hồ Gươm xanh thắm
Nơi Tháp Rùa nghiêng soi bóng…
Nhớ những cơn mưa dài cuối đông
Áo chăn chưa ấm thân mình
Và nhớ lúc bom rơi thời chiến tranh
Đất rung ngói tan gạch nát
Em vẫn đạp xe ra phố
Anh vẫn tìm âm thanh mới…
Trái với thông lệ, chưa bao giờ ca khúc Hoàng Hiệp, kể cả trước đó và
sau này, lại “nhiều lời” đến vậy. Đoạn nhạc chính của bài hát “gánh” tới 4
đoạn lời. Cảnh vật, âm thanh, hương sắc, quá khứ và hiện tại, nỗi đau và
niềm tin, tình yêu và những kỷ niệm không bao giờ mờ phai, cùng lúc ập
đến, tất cả đều xao xuyến ám ảnh, đều sâu nặng thiêng liêng, không cho
phép nhạc sĩ kiệm lời:
Nhớ những con đê thành lối xe
Bước chân năm tháng đi về
Và nhớ tiếng leng keng tàu sớm khuya
Hướng ra Đống Đa, Cầu Giấy
Ôi nhớ Thủ đô năm ấy
Ta đánh giặc trên mâm pháo…
Nhớ phố Quang Trung, đường Nguyễn Du
Những đêm hoa sữa thơm nồng
Và nhớ, nhớ bao khuôn mặt mến thân
Đã quen bước chân giọng nói
Ôi nhớ chiều ba mươi Tết
Chen giữa đào hoa tươi thắm
Đường phố đông vui chờ đón tân niên
Là phút thiêng liêng lắng nghe thơ người
Hà Nội ơi!
Những ai từng sổng ở Hà Nội những năm 1955 – 1975, một thời gian
khó và tự hào,“một thời đạn bom, một thời hòa bình” như cách nói của
Hoàng Hiệp, dù đã xa Hà Nội hay đang sống giữa Hà Nội, có lẽ đều không
cầm được nước mắt khi nghe, khi hát “Nhớ về Hà Nội”.
Còn nhớ, năm 1994, khi được gặp và trò chuyện với nhạc sĩ Hoàng
Hiệp tại TPHCM, khi tôi hỏi bí quyết nào giúp ông có một ca khúc hay như
thế về Hà Nội, ông mỉm cười: “Bởi tôi may mắn được sống những ngày đẹp
nhất của tuổi trẻ ở thủ đô Hà Nội và cũng bởi “Và nơi đó có một người,
người mà tôi mến yêu”(lời bài hát “Tình yêu Hà Nội” của nhạc sĩ Hoàng
Vân”)…
30
31. Cuộc hạnh ngộ trong “Xuân và Tuổi trẻ”
“Xuân và tuổi trẻ” có lẽ là khúc nhạc xuân được hát nhiều nhất trong
hơn 60 năm qua trên đất nước ta, kể từ khi nó được nhà thơ Thế Lữ đặt lời
Việt rồi được ông cùng các nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, Văn Chung dàn
dựng trên sân khấu Đoàn Ca Vũ Nhạc Kịch Anh Vũ biểu diễn ra mắt tại nhà
hát Phan Hương trên đường Minh Hương, thị xã Hội An, đầu năm 1946.
Không nhiều người biết tác giả của khúc nhạc xuân bất hủ này, nhạc sĩ La
Hối, là một nghệ sĩ - chiến sĩ cách mạng can trường, người đã hy sinh vì đại
nghĩa của dân tộc ngay giữa tuổi 25…
Nhạc sĩ La Hối, tên thật là La Doãn Chánh, sinh năm 1920 tại Hội An.
La Hối gốc người Quảng Đông nhưng dòng tộc ông đến định cư tại phố Hội
đã 17, 18 đời. Từ nhỏ, La Hối thông minh, học giỏi và tỏ ra có năng khiếu
đặc biệt về âm nhạc. Năm 14 tuổi, ông đã chơi được các nhạc cụ mandolin,
ghita, accordeon, piano và tự sáng tác các khúc nhạc tươi vui về tuổi học trò
để diễn tấu. Những năm 1936 -1938, La Hối vào Saigon để học tiếp văn hóa
và trau dồi thêm kiến thức âm nhạc. Năm 1939, về lại quê hương, La Hối
dạy nhạc và cùng với nhạc sĩ Vương Gia Khương, tác giả bài “Cờ Việt
Minh”, thành lập Hội Âm Nhạc Hội An (Société philharmonique de Faifoo)
mà ông là hội trưởng, tập trung vào hội những thanh niên yêu thích âm nhạc
để dìu dắt họ về hòa âm, sáng tác và biểu diễn âm nhạc. Nhiều học trò của
La Hối sau này đã trở thành những nhạc sĩ khá nổi tiếng như Lê Trọng
Nguyễn, Lan Đài, Dương Minh Ninh, Hồ Vân Thiết, La Xuân, Hoàng Tú
Mỹ, Trương Đình Quang...
Theo thiếu tướng nhà văn Nguyễn Chí Trung, từ những năm 1939 -
1940 trong phong trào chống phát xít Nhật xâm lược Trung Quốc, Đông
Dương và Đông Nam Á, La Hối đã tham gia và nhanh chóng trở thành thủ
lĩnh một nhóm thanh niên Hoa Kiều chống phát xít Nhật và là cơ sở của
Đoàn Thanh niên Dân chủ Hội An do các Đảng viên Cộng sản Việt Nam
Ngô Tam Tư, Huỳnh Đắc Hương lãnh đạo. Khi đó, Ban nhạc thuộc Hội Âm
nhạc Hội An của La Hối bắt đầu diễn tấu các hành khúc cách mạng của Việt
Nam, Trung Hoa, Nga để gieo lửa cách mạng vào công chúng. Vào khoảng
tháng 7 năm 1939, nhóm thanh niên Hoa kiều kháng Nhật của La Hối tổ
chức triển lãm tội ác của phát xít Nhật và công cuộc kháng Nhật của nhân
dân Trung Hoa tại chùa Quảng Triệu, đọc các bài thơ Song Thất, Quyết đề
kháng, Ly rươu thọ, Đông Kinh nhuộm máu của Tố Hữu gây chấn động cả
Hội An. La Hối và các đồng chí của ông còn tổ chức nhiều hoạt động phá
hoại các nơi quân Nhật đồn trú, phá kho lương thực, đầu độc ngựa của Nhật
31
32. tại Hội An và các vùng lân cận. Trong thời gian từ 1939 đến 1944, ngoài các
bản nhạc và ca khúc rất được thanh niên quê hương ưa thích về mùa xuân và
tuổi trẻ, La Hối đã viết một số hành khúc hùng tráng cổ động tinh thần yêu
nước, ý chí chống phát xít xâm lược. Tiêu biểu là ca khúc Gió thiêng liêng
ông viết năm 1944: Lời đất nước gieo niềm tin/ Gió lên kia rồi/ Gió thiêng
liêng bừng chí thanh niên/ Lời đất nước giục lòng ta…Bản nhạc Xuân và
Tuổi trẻ cũng được nhạc sĩ La Hối viết trong giai đoạn này. Theo một vài
cựu đồng chí của La Hối thì người nhạc sĩ cách mạng Hội An đã dùng phần
dạo đầu (intro) của nhạc phẩm này làm ám hiệu liên lạc cho tổ chức kháng
Nhật của ông.
Từ năm 1944, hoạt động của La Hối bị bại lộ, hiến binh Nhật ráo riết
truy nã ông. Tháng 5.1945, ông và 9 đồng chí trong tổ chức bị phát xít Nhật
bắt giữ. Sau nhiều ngày giam cầm và tra tấn vô cùng dã man nhưng không
hề khai thác được gì, ngày 19 tháng 4 năm Ất Dậu (tức ngày 30 tháng 05
năm 1945), bọn Nhật đem hành hình 10 người con thân yêu đó của Hội An,
tại chân núi Phước Tường (gần sân bay Đà Nẵng). La Hối và bạn bè thì đã bị
vùi chung trong một hố chôn người bí mật.
Nhà văn Nguyễn Chí Trung cho biết: khi quân Tưởng Giới Thạch vào
Đà Nẵng tước khí giới quân Nhật, nhân dân Hội An đã yêu cầu quân Tưởng
buộc quân Nhật chỉ chiếc hố chôn La Hối và 9 người bạn của ông. Gia đình
La Hối nhận ra thi thể ông nhờ chiếc áo carô ông mặc hôm bị bắt. Bà con
Hoa - Việt Hội An dã đem di hài La Hối và 9 đồng chí của ông về an táng ở
trước chùa Chúc Thánh, trong ngôi mộ dài, chia làm 10 khoang. Khoang thứ
hai từ trái sang là khoang mộ La Hối.
La Hối từ giã cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc một cách đột ngột khi
còn quá trẻ và liền sau đó là chiến tranh ly loạn, nên những gì liên quan đến
ông, nhất là các sáng tác của ông, hậu thế biết được rất ít. Bạn bè và học trò
nhớ rằng cho tới trước lúc hy sinh, La Hối đã sáng tác rất nhiều nhạc đàn và
ca khúc nhưng hầu hết các tác phẩm của La Hối đều được ông gửi cho người
con gái ông yêu lưu giữ. Đó là một thiếu nữ Hội An xinh đẹp, làm nghề dạy
đàn piano. Sau khi La Hối hy sinh, mọi người không còn thấy thiếu nữ này ở
Hội An và cô lưu lạc về đâu, còn sống hay đã mất, cũng không ai được biết.
Gia đình nhạc sĩ chỉ lưu giữ được vài sáng tác của ông. May mắn sao trong
đó có bản nhạc Xuân và tuổi trẻ.
Thực ra, Xuân và tuổi trẻ không phải là cái tên La Hối đặt cho nhạc
phẩm của mình. Đó là cái tên do nhà thơ Thế Lữ đặt khi viết lời Việt cho nó.
Đây nguyên là một bản nhạc không lời, có đầu đề Pháp ngữ là Printemps et
la Jeunesse được La Hối sáng tác đầu năm 1944. Sau đó, một người bạn
gốc Hoa, thi sĩ Diệp Truyền Hoa, đã đặt lời Hoa với tiêu đề Thanh niên dữ
xuân thiên để phổ biến trong cộng đồng Hoa kiều ở Hội An.
Đầu năm 1946, Đoàn Ca Vũ Nhạc Kịch Anh Vũ từ thủ đô Hà Nội
thực hiện chuyến lưu diễn xuyên Việt đến các tỉnh miền Trung. Sau khi
trình diễn tại Huế, đoàn vào thắng Hội An. Đoàn do ông Võ Đức Diên làm
32
33. trưởng đoàn với các thành viên trứ danh như nhà thơ Thế Lữ và vợ, nghệ sĩ
Song Kim, các nhạc sĩ Văn Chung, Bùi Công Kỳ, Nguyễn Xuân Khoát…
Nghe tiếng La Hối đã lâu, khi đến Hội An, Thế Lữ và các nhạc sĩ
đồng hành muốn tìm gặp tài năng âm nhạc của Hội An thì được biết La Hối
không còn nữa. Đoàn Anh Vũ đến thắp hương viếng La Hối, được gia đình
La Hối đưa tặng một số bản nhạc của La Hối trong đó có nhạc phẩm Le
Printemps et la Jeunesse. Ngay lập tức, Thế Lữ và các nhạc sĩ Nguyễn Xuân
Khoát, Văn Chung, Bùi Công Kỳ đã cảm nhận được đây là một tuyệt phẩm
âm nhạc của người quá cố. Xúc động trước tấm gương người nhạc sĩ - liệt sĩ
đã hiến dâng tài năng và tuổi trẻ cho đất nước và tác phẩm đầy sức sống của
ông, Thế Lữ xin phép gia đình nhạc sĩ đặt lời ca tiếng Việt và dàn dựng nhạc
phẩm của La Hối trên sân khấu Đoàn Anh Vũ.
Chỉ trong một đêm thức trắng, hóa thân vào thế giới âm thanh rạo rực,
thổn thức, say đắm tình yêu, niềm vui sống hồn nhiên trong sáng của tuổi trẻ
trong nhạc phẩm của La Hối, Thế Lữ đã viết xong lời Việt cho bản nhạc, ca
từ hoà hợp kỳ lạ với từng nốt nhạc, với giai điệu và tiết tấu của nhạc phẩm:
Ngày thắm tươi bên đời xuân mới
Lòng đắm say bao nguồn vui sống
Xuân về với ngàn hoa tươi sáng
Ta muốn hái muôn ngàn đóa hồng…
Xuân thắm tươi, én tung bay cao tít trời
Vui sướng đi, cao tiếng ca mừng vui reo
Đừng để lòng thổn thức tình mê đắm
Ta trẻ vui, ta trẻ vui đời xuân thắm tươi
Lời Việt kỳ tài của ông “Vua Thơ Mới” Thế Lữ đã chính thức biến
bản nhạc không lời Le Printemps et la Jeunesse của La Hối đã trở thành ca
khúc Xuân và tuổi trẻ. Với phần hoà âm của nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát,
phần vũ điệu do nhạc sĩ Văn Chung biên soạn, cùng với tài năng đạo diễn
của nhà thơ Thế Lữ, Xuân và tuổi trẻ đã được dựng thành một màn ca vũ
hấp dẫn ra mắt trên sân khấu Đoàn Anh Vũ tại Nhà hát Phan Hương, Hội An
đầu năm 1946.
Kể từ đó Xuân và Tuổi trẻ đã truyền nhanh từ Hội An, Đà Nẵng ra
Huế, tới Hà Nội, vào vùng tự do Nam Ngãi Bình Phú, vào Phan Thiết, Sài
Gòn, đến chiến khu Việt Bắc. Và cho đến nay, sau hơn 60 năm, Xuân và
Tuổi trẻ, ca khúc khai sinh từ cuộc hạnh ngộ của nhạc sĩ La Hối và nhà thơ
Thế Lữ, vẫn luôn trẻ trung, tươi mới, vẫn được coi là ca khúc xuân hay nhất,
được hát nhiều nhất, mỗi độ xuân về.
33