BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
Bai 2 mo hinh nghien cuu va kiem dinh su tin cay thang do
1. BÀI 2 MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ KIỂM ĐỊNH SỰ TIN CẬY THANG
ĐO LƯỜNG TRONG MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Đào Trung Kiên – Nghiencuudinhluong.com
1. Mô hình nghiên cứu
Đối với một nghiên cứu hành vi (xã hội học) thuật ngữ mô hình nghiên cứu là
chỉ mối quan hệ giữa các nhân tố (biến nghiên cứu) với nhau như thế nào dựa trên
các lý thuyết kinh tế, quản trị, tâm lý xã hội…
Một mô hình nghiên cứu gồm gồm 2 thành phần cơ bản là (1) các biến nghiên
cứu và (2) các mối quan hệ giữa các biến nghiên cứu (được thể hiện qua các giả
thuyết nghiên cứu). Một mô hình nghiên cứu (đơn giản) có thể được biểu diễn như
sau:
Nhân tố 1
Nhân tố 2
Biến chịu
tác động
Nhân tố 3
Trong mô hình nghiên cứu này thiết lập mối quan hệ giữa ba nhân tố với một
yếu tố chịu tác động nào đó (gọi là biến phụ thuộc, trong một mô hình nghiên cứu
có thể có nhiều quan hệ nhân quả hơn nữa).
2. 1.1Các biến nghiên cứu
Trong mô hình nghiên cứu ở trên các biến nghiên cứu được hiểu là các nhân
tố và biến chịu tác động. Có hai loại biến nghiên cứu là (1) biến độc lập (hay biến
giải thích) và (2) biến phụ thuộc (biến được giải thích, biến mục tiêu) (Trong một
nghiên cứu có thể có nhiều biến phụ thuộc và độc lập khác nhau).
Biến độc lập: Là các biến nghiên cứu không chịu sự tác động của các biến
khác, nó dùng để giải thích cho biến phụ thuộc
Biến phụ thuộc: Là biến nghiên cứu chịu sự tác động của biến khác (thông
qua các lý thuyết được thiết lập).
Khái niệm thế nào là biến độc lập và biến phụ thuộc được xác định thông qua
quan hệ giữa các biến với nhau. Trong một mô hình nghiên cứu có thể có một biến
vừa là biến độc lập vừa là biến phụ thuộc, điều đó phụ thuộc vào quan hệ giữa các
biến với nhau. Về mặt biểu diễn biến phụ thuộc được biểu diễn bởi đầu mũi tên,
biến độc lập được biểu diễn bởi gốc mũi tên.
Biến tiềm ẩn: Đối với các dạng nghiên cứu hành vi nói chung thì các biến
nghiên cứu thường không thể xác định được một cách trực tiếp mà phải thông qua
nhiều khía cạnh khác nhau. Ví dụ để xác định tính “tin cậy” của một sản phẩm,
dịch vụ nào đó. Nhà nghiên cứu có thể phải xác định thông qua nhiều khía cạnh
khác nhau như: sản phẩm đáp ứng được kỳ vọng về độ bền, công ty có uy tín trên
thị trường, hành vi của nhân viên là đáng tin cậy…, thông qua nhiều khía cạnh này
nhà nghiên cứu mới đưa ra được khái niệm về “tin cậy”. Việc đánh giá những yếu
tố tiềm ẩn thông qua các khía cạnh có thể khảo sát được gọi là biến tiềm ẩn (nó
không thể trực tiếp đánh giá được mà phải thông qua các nhiều khía cạnh khác
nhau).
3. Biến quan sát: Biến quan sát là các khía cạnh có thể trực tiếp khảo sát đối
tượng điều tra được. Trên thực tế các biến quan sát là các câu hỏi trong bảng hỏi
điều tra. Mỗi một câu hỏi điều tra sẽ khảo sát đối tượng điều tra về một khía cạnh
nào đó mà họ có thể trả lời một cách rõ ràng.
Trong một mô hình nghiên cứu (xét cho các dạng nghiên cứu hành vi) thì các
nhân tố là chính là các biến tiềm ẩn. Đối với biến phụ thuộc có thể là biến tiềm ẩn
cũng có thể không (!)
1.2 Xây dựng mô hình nghiên cứu và các biến nghiên cứu
Để thiết lập được mô hình nghiên cứu, nhà nghiên cứu phải xác định được
mục tiêu nghiên cứu một cách rõ ràng. Mục tiêu nghiên cứu đó sẽ liên quan đến
những câu hỏi nào cần giải đáp. Từ các câu hỏi nghiên cứu đó nhà nghiên cứu có
thể dựa vào các lý thuyết, các công trình nghiên cứu đi trước để thiết lập mộ mô
hình nghiên cứu có thể giúp đánh giá, trả lời được các câu hỏi nghiên cứu.
Các biến nghiên cứu sẽ được thiết lập thông qua lý thuyết hoặc xây dựng qua
chu trình phát triển thang đo của Churchill (1979).Thông thường đối với trình độ
thạc sỹ đòi hỏi các nghiên cứu kiểm định nhiều hơn. Tức là nhà nghiên cứu sử
dụng những mô hình nghiên cứu có sẵn hoặc kết hợp các nghiên cứu có sẵn mà các
biến nghiên cứu đã được định nghĩa khá rõ ràng, được thiết lập bằng các khía cạnh
chính và kiểm tra tính tin cậy của nó trong các nghiên cứu khác.
Khi xây dựng các biến nghiên cứu từ các nghiên cứu khác, nhà nghiên cứu sẽ
kế thừa bộ câu hỏi được sử dụng trước đó và tiến hành đánh giá, điều chỉnh cho
phù hợp với nghiên cứu của mình. Đối với các nghiên cứu khoa học việc đưa ra
một biến quan sát cho một nhân tố nào đó phải thể hiện được (1) đối với việc kế
thừa phải kế thừa từ các nghiên cứu tương đồng đảm bảo tính khoa học (thông qua
công bố quốc tế !); (2) đối với biến mới không kế thừa từ nghiên cứu khác nó phải
4. được thể hiện qua việc xây dựng thông qua một chu trình mang tính khoa học (chu
trình của Churchill là chu trình phổ biến nhất, nhưng không phải là duy nhất)
Một số quy tắc kinh nghiệm để xây dựng các biến quan sát cho một nhân tố.
- Một nhân tố phải được xây dựng tối thiểu bởi 3 biến quan sát
- Mỗi một biến quan sát chỉ thể hiện một khía cạnh duy nhất, không thể hiện
nhiều khía cạnh trên một biến quan sát sẽ dẫn đến hiện tượng lưỡng lự khi
trả lời
- Thông thường một nhân tố được xây dựng từ 4 – 6 biến quan sát.
Chú ý: Một số nghiên cứu gặp phải sẽ thấy một “nhân tố” có rất nhiều biến
quan sát (20 – 30 biến). Bản chất đó là dạng thang đo đa hướng hay khái niệm
nghiên cứu bậc cao, chúng là dạng “nhân tố của nhân tố”. Ví dụ để đánh giá chất
lượng dịch vụ Parasuraman et al (1988) xây dựng trên 5 nhân tố là (1) sự tin cậy,
(2) khả năng đáp ứng, (3) năng lực phục vụ, (4) đồng cảm, (5) phương tiện hữu
hình. Năm nhân tố này được đánh giá qua 22 biến quan sát khác nhau. Yếu tố chất
lượng được đánh giá tổng hợp qua 5 nhân tố, tức là nó đánh giá gián tiếp qua 2 lần.
Đây là một dạng khái niệm về thang đo đa hướng (nhiều hơn 1 nhân tố và là dạng
khái niệm bậc cao)
2. Kiểm định sự tin cậy thang đo
Về mặt lý thuyết nhà nghiên cứu có thể được xây dựng từ một nhóm câu hỏi
khác nhau. Tuy nhiên đó là lý thuyết, về mặt thực tế có thể trong những câu hỏi có
những câu hỏi không cần thiết. Để kiểm tra việc này thông thường người ta sử
dụng hai chỉ số thống kê là (1) Hệ số Cronbach Alpha và (2) hệ tố tương quan biến
tổng.
5. Hệ số Cronbach Alpha là hệ số cho phép đánh giá xem nếu đưa các biến quan
sát nào đó thuộc về một biến nghiên cứu (biến tiềm ẩn, nhân tố) thì nó có phù hợp
không. Hair et al (2006) đưa ra quy tắc đánh giá như sau:
< 0.6. Thang đo nhân tố là không phù hợp (có thể trong môi trường nghiên
cứu đối tượng không có cảm nhận về nhân tố đó)
0.6 – 07: Chấp nhận được với các nghiên cứu mới
0.7 – 0.8: Chấp nhận được
0.8 – 0.95: tốt
>= 0.95: Chấp nhận được nhưng không tốt, nên xét xét các biến quan sát có
thể có hiện tượng “trùng biến”
Hệ số tương quan biến tổng là hệ số cho biến mức độ “liên kết” giữa một biến
quan sát trong nhân tố với các biến còn lại. Nó phản ánh mức độ đóng góp vào giá
trị khái niệm của nhân tố của một biến quan sát cụ thể. Tiêu chuẩn để đánh giá một
biến có thực sự đóng góp giá trị vào nhân tố hay không là hệ số tương quan biến
tổng phải lớn hơn 0.3. Nếu biến quan sát có hệ số tương quan biến tổng nhỏ hơn
0.3 thì phải loại nó ra khỏi nhân tố đánh giá.
3. Thực hiện trên SPSS
SPSS cho phép đánh giá cả hệ số Cronbach Alpha và hệ số tương quan biến
tổng một nhân tố theo các bước như sau:
6. Nhấn ok bạn sẽ thu được hình sau:
Chuyển các biến trong một nhân tố sang bên phải như hình, phần model để mặc
định là “Alpha”, click chuột vào nút “statistics” và chọn các nút như hình :
7. Nhấn “continue” sau đó tiếp tục chọn ok sẽ được kết quả như sau:
Reliability Statistics
Cronbach's
N of
Alpha
.811
Items
4
Scale Mean if
Item Deleted
work
1
work
2
work
3
work
4
Item-Total Statistics
Scale Variance if Corrected Item- Cronbach's Alpha if
Item Deleted
Total Correlation
Item Deleted
14.45
14.621
.660
.748
14.64
14.582
.671
.743
14.40
13.799
.687
.734
14.28
15.491
.507
.821
8. Kết quả sẽ cho bạn biết hệ số Cronbach Alpha như thế nào và các thống số
liên quan. Ở bảng thứ hai bạn quan tâm đến 2 cột cuối cùng là “Corrected ItemTotal Correlation” (tương quan biến tổng) và “”Cronbach's Alpha if Item Deleted”
(hệ số Cronbach Alpha nếu loại biến)
Kết quả này cho biến 4 biến quan sát đánh giá bằng Cronbach Alpha bằng
0.811 (tốt), các hệ số tương quan biến tổng lớn hơn 0.3 (tốt), nếu bạn loại một biến
nào đó mà giữ lại các biến khác thì spss cho phép bạn biến giá trị tính toán lại của
hệ số Cronbach alpha ở cột cuối cùng).
Chú ý: Trong phân tích dữ liệu nghiên cứu thông thường với các nghiên cứu
sẽ kiểm định bằng Cronbach Alpha trước sau đó mới tiến hành phân tích khám phá
nhân tố. Một số nhà nghiên cứu có cách làm ngược lại (không sai), lựa chọn phân
tích trước hay sau phụ thuộc vào loại nghiên cứu và cách biện luận khi thực hiện
dựa trên các “thông tin tiên nghiệm” hay không.